TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 94  CN 15.07.2007

 

 

Web site www.tinvui.org

E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

 

Mục lục

Chúa Nhật XV Thường Niên C..

ĐỪNG SỢ!

NHỚ VỀ LỄ MỞ TAY..

NỘI DUNG THƯ ĐỨC THÁNH CHA GỬI CÁC GIÁM MỤC VÀ TỰ SẮC ”SUMMORUM PONTIFICUM”.

Bức Thư của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI gởi cho Giáo Hội tại Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa.

Thư của Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn gởi các Cơ quan Truyền thông Công giáo Việt Nam  

Cha Bề trên Tổng quyền Dòng Tên đến Việt Nam..

Bài giảng của Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa trong Đại Lễ mừng Kim Khánh Giáo phận Nha Trang 

NHƯ HỒN TRONG XÁC..

YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ..

Xuân, hạ, thu, đông. Bốn mùa cứ lần lượt đến rồi lại đi.

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC..

Chứng hôn cho người đã có vợ.

TRINH NỮ TỬ ĐẠO TRUNG HOA: AGATHA LINH VÀ LUCIA Y..

ĐỜI PHẢI THẾ..

VỤN VẶT SUY TƯ :

Thiên nhiên cho ta nhiều phương thức truyền giáo.  

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 Chúa Nhật XV Thường Niên C

 

 Lc 10, 25-37

"Ai là anh em của tôi?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp:

"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".

Đó là lời Chúa.

 

ĐỪNG SỢ!

Nỗi sợ là tên trùm khủng bố kinh khủng nhất vây quanh đời người, luôn rình rập chụp xuống tâm não con người. Có những nỗi sợ chính đáng. Nhưng cũng có những nỗi sợ chẳng chính đáng chút nào…

Hôm nay, kể câu chuyện người Samaritanô nhân hậu, Chúa “lật đổ” thái độ vô tâm cách đáng tội của hàng giáo sĩ trong Hội Thánh. Hãy nghe Chúa nói về hàng giáo sĩ của Chúa: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi một thầy Lêvi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua một bên mà đi…”. Tư tế là ai? Lêvi là ai? Những người đó tương đương những bậc “chân tu” của thời đại. Họ là tất cả Giám mục, linh mục của Chúa.

Tôi vẫn có thói quen tìm những lý lẽ để biện minh cho người bị “kết tội”, để dù có tội, tội của người ấy cũng sẽ được nhìn ở khía cạnh nhẹ nhất. Cứ coi như Chúa kết tội thái độ vô tâm của hàng giáo sĩ, thì tôi vẫn nhìn thấy bên trong sự vô tâm ấy là một nỗi sợ hãi. Tôi biện minh cho thái độ vô tâm ấy là do sợ hãi. Bởi sợ nên vô tâm. Tư tế và Lêvi vô tâm đối với người bị cướp vì họ sợ bị nhiễm ô uế. Luật Do thái quy định, ai đụng chạm vào xác chết, nhất là đụng chạm hoặc tiếp xúc người ngoại giáo, sẽ bị nhiễm ô uế. Tư tế và Lêvi chắc chắn thông suốt lề luật. Chính vì thế, họ hiểu rõ luật về nhiễm ô uế. Mà đã nhiễm ô uế, sẽ không được phép tham dự mọi nghi thức phụng vụ chung của cộng đoàn... Cứ cho rằng, người bị cướp có thể là người ngoại, lại còn sắp chết nữa. Vì thế, để khỏi nhiễm ô uế, Tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã “tránh qua một bên mà đi”.

Ngày hôm nay, biết đâu vẫn còn những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh sống trong sự nơm nớp lo sợ tương tự như thế. Chẳng hạn như ai đó sợ không được xây nhà thờ chỉ vì cho phép phát tờ bướm bảo vệ sự sống. Tôi đã từng gặp vài anh chị em trong nhóm Bảo vệ sự sống ở Sài Gòn kể rằng, có những linh mục, khi được ngỏ lời để chỉ xin phát những “tờ rơi” quảng bá việc bảo vệ sự sống ở một góc nào đó thật khiêm tốn trong khuôn viên nhà thờ thôi, lại bị từ chối, thậm chí bị đuổi ngay lập tức. Lý do rất… vô lý rằng: “Sợ… không được xây nhà thờ”. Không lẽ việc xây nhà thờ lại quan trọng đến nỗi, công tác bảo vệ sự sống, là một trong những công tác hàng đầu, hơn thế, là nhiệm vụ thuộc thánh chức linh mục, lại phải nhường bước? Nỗi sợ nào chính đáng? Để nỗi sợ không đáng để sợ lên ngôi, trong trường hợp này, linh mục trở thành kẻ vô tâm hết sức, nếu không muốn nói là đã phạm tội.

Vì sao cấm phát tờ bướm nơi nhà thờ của mình lại phạm tội? Hội Thánh là Mẹ và là Thầy. Hơn nữa, Hội Thánh không hề sai lầm và sẽ không bao giờ sai lầm trong vấn đề bảo vệ luân lý, bảo vệ chân lý đức tin. Trong vai trò là Mẹ, là Thầy không thể sai lầm, Hội Thánh dạy nhiều lề luật luân lý và chân lý đức tin. Bảo vệ sự sống là luật luân lý hàng đầu, là vấn đề cấp bách, bởi đang gây sóng gió cho nền luân lý của Hội Thánh, làm nhức nhối lương tâm Hội Thánh, chúng ta không được phép làm ngơ. Hãy trung thành bảo vệ sự sống của mình cũng như của đồng loại. Không dám nói rằng, cấm phát tờ rơi là không bảo vệ sự sống. Vì nói như thế là hàm hồ. Người ta có thể bảo vệ sự sống bằng nhiều cách, chứ không phải chỉ phát tờ rơi. Có khi phát tờ rơi không hiệu quả bằng những sáng kiến khác để bảo vệ sự sống. Tuy nhiên, nếu để len lỏi trong tâm hồn mình một sự sợ hãi đối với luật dân sự, đến nỗi xem nhẹ luật Hội Thánh là Mẹ và là Thầy không sai lầm của mình, thì chúng ta đã thật sự có lỗi. Tội là ở điểm này. Nếu đúng như thế, thì sự sợ hãi của ta hôm nay, có khác gì sự sợ hãi của tư tế, Lêvi trong dụ ngôn của Chúa ngày xưa! Sợ một thứ luật thấp hèn để loại trừ luật cao trọng. Sợ một thứ luật của một nền thống trị để loại trừ luật nhân ái đối với con người. Sợ một thứ đụng chạm để loại trừ tình yêu. Sợ bị nghi kỵ mà làm thinh để cho việc giết người trở thành công khai, trở thành hợp thức hóa, được luật pháp không những cho phép mà hình như còn có vẻ khuyến khích. Sợ bị trả thù nơi thân xác mà sẵn sàng làm thinh và thỏa hiệp với tội lỗi. Sợ bị bắt bớ, bị kết tội mà làm thinh để chuốc lấy tội có sức hủy diệt tâm hồn mình… Cuối cùng, nặng hơn: sợ con người mà bỏ qua Thiên Chúa.

Đáng buồn hơn, người bị thế giới của sự sợ hãi giam hãm, thế giới của quyền lực tối tăm “bỏ tù” đến nỗi phải sợ hãi như thế, lại chính là linh mục của Chúa… Nghĩ lại mà hỗ thẹn, mà cảm thấy có lỗi với cha ông. Bởi chúng ta thua xa đức tin của cha ông chúng ta. Dù đức tin còn mới mẻ vô cùng vì mới được truyền giáo, nhưng suốt ba thế kỷ bắt đạo là ba thế kỷ hằn lên một niềm tin kiên vững, bất khuất, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi.

Cha Ông chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam là một bằng chứng sống động cho lời Chúa Giêsu đã từng dạy: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”. Cha Ông chúng ta đã chẳng sợ bất cứ điều gì. Các ngài bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi thế lực, dù những nguy hiểm, những thế lực ấy hung bạo đến đâu, tàn khốc đến đâu, dã man đến đâu đi nữa. Cha Ông chúng ta còn bất chấp cả sự chết, đã quyết một đời trung kiên theo Chúa, thì giây phút cuối cùng của mạng sống, sẽ hiến dâng trọn vẹn một đời cho Chúa. Cha Ông chúng ta đã trung thành cao rao danh Chúa không chỉ bằng lời, không chỉ bằng hành động, không chỉ bằng đời sống, nhưng bằng cả SỰ SỐNG của mình. Là người, như chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam, chắc không khỏi khiếp đãm trước cái chết, không khỏi sợ hãi trước những quyền lực thế gian đen tối, không khỏi sợ hãi trước những thói tàn nhẫn, bạo ngược... Nhưng vì lòng yêu mến Chúa, các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bỏ lại nỗi sợ hãi phía sau mạng sống đời này của mình, để đi tới trong đời vĩnh cửu. Hiến dâng mạng sống vì lòng tin, các thánh Tử Đạo Việt Nam đã đi đến tận cùng của lòng thần phục Thiên Chúa, “Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”

Hội Thánh của Chúa, Nước Chúa ở trần gian đã được trao lại cho mỗi Kitô hôm nay gìn giữ và bảo vệ. Các Kitô hữu ấy chính là hàng hàng lớp lớp người đang nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa của đời mình. Các Kitô hữu ấy chính là mọi tầng lớp giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân của Chúa. Nước Chúa mà các Kitô hữu ra sức gìn giữ là gia tài, là kho báu vô giá mà họ phải bất chấp tất cả nỗi sợ hãi để ra sức gìn giữ đến cùng. Đúng hơn, đứng trước gia tài vĩnh cửu là Nước Chúa, đứng trước vấn đề của đức tin, các Kitô hữu chỉ giữ lại cho mình một nỗi sợ cuối cùng mà thôi, đó là LÒNG KÍNH SỢ CHÚA, SỢ TỘI LỖI LÀM MẤT LÒNG CHÚA.

Thế giới quanh ta vẫn còn đó, rất nhiều những người bị cướp như người khách bị cướp hại trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Họ là những bào thai không phương thế tự vệ, là những trẻ em ngỗ nghịch, thất học, là những mảnh đời ngụp lặn trong dòng đời nhầy nhụa, đến một cụ già bị bỏ quên trên góc phố… Tất cả những người ấy, đều rất cần chúng ta, những bàn tay của người Samaritanô thời đại. Chúng ta hãy dẹp bỏ thái độ vô tâm của tư tế, Lêvi để cúi xuống trên những anh chị em đau khổ của mình. Hãy nhớ rằng, chỉ khi trở thành người Samaritanô, ta mới thật sự là anh em của những người “bị cướp” ấy.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt lên trên nỗi sợ hãi của bạo quyền thế gian, vượt lên trên nỗi sợ hãi đối với lòng người đen tối, để quyết đi đến cùng con đường cứu chuộc chúng con. Lẽ nào, hôm nay, chúng con vẫn chưa thuộc bài học Chúa dạy “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”. Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa, và nhìn những tấm gương vượt thoát sợ hãi nơi anh chị em mà đi đến cùng con đường theo Chúa, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi đe dọa chúng con.

Lạy Chúa, người Samaritanô nhân hậu đã cúi xuống, ôm lấy nỗi đau của anh em mình. Nhân loại hôm nay vẫn còn đầy đau thương và nước mắt. Nhân loại vẫn cay đắng cơ hàn, đói lương thực, đói tinh thần và đói cả tình thương. Xin cho chúng con, những kẻ được thừa hưởng tình yêu thương vô bờ của Chúa, biết vượt lên mọi nỗi sợ hãi của trần thế, chỉ sợ mất lòng Chúa mà thôi. Từ đó giúp con can đảm trở thành người Samaritanô hôm nay, để sống vì và sống cho sự sống của anh chị em chúng con. Amen.

Lm. VŨ XUÂN HẠNH

Mục lục

 

CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

 

NHỚ VỀ LỄ MỞ TAY

 

Khi sức khoẻ càng xuống, tuổi càng già, tôi càng ưa thích được sống thinh lặng.

 

Trong thanh vắng, tôi thấy quá khứ mình trở về hiện tại. Nhiều hoài cảm rất xa xưa nay sống lại dần dần. Êm đềm nhất là những kỷ niệm đầu tiên của đời linh mục.

 

Hôm nay, tôi xin phép chia sẻ kỷ niệm thánh lễ đầu tiên của tôi. Thánh lễ đầu tiên của tân linh mục quen được gọi là “lễ mở tay”. Thánh lễ này của tôi đã diễn ra tại một trại di cư trong nhà thờ xứ Long Phước thôn di cư Biên Hoà.

 

Thánh lễ được tổ chức rất đơn sơ. Nhưng nó đã in vào lòng tôi ba ấn tượng sâu sắc. Ảnh hưởng của nó trải dài suốt cuộc đời tôi.

 

  1. Chia sẻ cuộc sống nghèo của đoàn chiên.

 

Từ Hồng Không về nước, để dâng lễ mở tay, tôi thấy một quê hương mới. Dân di cư sống rất nghèo. “Nhà thờ”, nơi tôi dâng thánh lễ, là một nhà dựng tạm. Hai mái che bằng những tấm bạt lớn. Nền đất, chỗ cao chỗ thấp.

 

Giáo dân rất đông. Ai cũng nghèo khó. Tất cả đều nghèo. Nhưng bầu khí xứ đạo rất ấm cúng.

 

Chúng tôi chẳng có quà tặng nhau. Chỉ có những ánh mắt thân thương, những nụ cười hồn nhiên, những bàn tay nối kết nghĩa tình.

 

Riêng tôi cũng chẳng sắm sửa gì. Áo lễ mượn. Chén lễ mượn. Không ảnh kỷ niệm. Không chụp hình.

 

Ngoài giáo xứ, gia đình và mấy linh mục thân quen. Cha Cố của tôi không mời ai hôm đó. Mọi sự đều đơn giản, kể cả bữa ăn.

 

Cảnh nghèo của thánh lễ mở tay đã gây trong tôi một suy nghĩ đẹp. Suy nghĩ đẹp đó là Chúa muốn linh mục chia sẻ cuộc sống nghèo của đoàn chiên. Chia sẻ đó phải tích cực, chân thành, từ tâm tình bên trong đến nếp sống bên ngoài. Chia sẻ như thế là một vinh dự. Không chia sẻ sẽ không hợp với ơn gọi của mình.

 

 

  1. Trong tay Đức Mẹ “Xin vâng” .

 

Thánh lễ mở tay thường mang một nét nổi. Đó là bài giảng. Linh mục, mà Cha Già Cố và tôi đã mời giảng trong lễ mở tay của tôi là một linh mục quen thân, đạo đức. Đó là cha Minh Đăng.

 

Bài giảng hôm đó của ngài nhấn mạnh đến sự linh mục cần sống trong tay Đức Mẹ, một Đức Mẹ” xin vâng”, một Đức Mẹ khiêm nhường, một Đức Mẹ suốt đời chỉ vâng phục thi hành thánh ý Chúa.

 

Cha Minh Đăng mang lửa mến trong trái tim ngài, nên cha giảng hung hồn, với giọng truyền cảm.

 

Ngài đã truyền cảm sang tôi, không phải chỉ qua bài giảng hôm đó, mà còn qua chính cuộc sống của ngài. Tôi tiếp nhận hình ảnh linh mục ngài đưa ra hôm nay. Cuộc đời linh mục là sống trong tay Đức Mẹ luôn xin vâng thi hành thánh ý Chúa.

 

Thánh ý Chúa sẽ được Chúa soi sáng không phải ngay một lúc. Nhưng dần dần. Có thể là từng ngày, từng lúc, từng giai đoạn lịch sử và từng hoàn cảnh cuộc sống. Điều cần thiết là phải tỉnh thức, khiêm nhường, biết từ bỏ ý riêng, biết đón nhận ý Chúa với tinh thần phó thác của Đức Mẹ.

 

Trong bài giảng, cha Minh Đăng không giới thiệu ai, không nhắc đến ai, ngài chỉ tập trung vào hình ảnh linh mục trong tay Đức Mẹ ”xin vâng”.

 

Tôi cảm tưởng là mọi người tham dự thánh lễ hôm đó đều được nâng tâm hồn lên với Chúa. Mọi người đều nhận mình là tôi tớ Chúa, như Đức Mẹ đã xưng. Cái nhìn đó đã làm mờ mạt cái nhìn linh mục như một chức cao quyền cả, tách rời khỏi dân, đứng trên dân, để ban phát, để quản trị.

 

Riêng đối với tôi, bài giảng của cha Minh Đăng trong lễ mở tay hôm đó đã được ghi sâu vào lòng tôi. Nó chìm vào tiềm thức tôi, để chi phối ý thức tôi, suốt mọi ngày trong đời sống tôi.

 

  1. Bước theo Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ.

 

Nhận xét về bài giảng cha Minh Đăng trong lễ mở tay của tôi, tôi muốn tiết lộ một chi tiết quan trọng giữa chúng tôi trong thánh lễ này.

 

Trong thánh lễ, ngay từ phòng mặc áo lễ, tôi đã xin ngài ban phép giải tội cho tôi. Liền sau đó, chúng tôi tâm sự với nhau về tình trạng linh mục có thể rơi vào những hiểm nguy khiến mình sa sút về đạo đức.

 

Trong lúc xúc động, tự nhiên chúng tôi đi tới một ước vọng. Ước vọng đó là : để góp phần nào vào việc thánh hoá linh mục, nếu Chúa muốn, chúng tôi xin sẵn sàng đón nhận cho mình những cái chết đau thương. Những cái chết như thế chẳng qua cũng chỉ là một bước đi theo Chúa Giêsu, Đấng đã chịu chết đớn đau, để cứu độ nhân loai.

 

Hai anh em chúng tôi đã trao đổi với nhau về ước vọng ấy. Sau đó chúng tôi đã cùng nhau dâng ước vọng đó lên Chúa. Lúc đó là sáng ngày 11 tháng 7 năm 1955.

Sau này, cha Minh Đăng vào dòng Đức Mẹ Đồng Công. Ngài đã chết một cách thảm thương trên đường làm việc tong đồ ngày 31.10.1981. Khi nghe tin đó, tôi biết ngay là ước vọng của cha đã được Chúa nhậm lời và thực hiện.

 

Còn ước vọng của tôi gói chung với ước vọng của cha xem ra cũng đã được Chúa nhậm lời. Tôi đã và đang được chết những cái chết đau thương khác, một cách nhẹ hơn, vì Chúa biết tôi  yếu đuối.

 

Hôm nay, khi nhớ về lễ mở tay trong ngày 11 tháng 7 năm 1955, tôi làm 4 việc sau đây:

 

Một là tạ ơn Chúa về mọi ơn Chúa ban cho tôi, ngay từ thánh lễ mở tay.

 

Hai là tạ tội với Chúa, về mọi lỗi lầm, sai sót của tôi trong suốt những năm qua.

 

Ba là tạ đền trước Chúa. Đền ơn, và đền tội.

 

Bốn là tạ từ mọi tấm lòng tốt, đã nâng đỡ tôi. Như cha Minh Đăng chẳng hạn. Và những độc giả đã có lòng tốt khích lệ tôi chia sẻ về tu đức. Tạ từ như một đáp từ cảm ơn, biết ơn và ghi ơn.

 

Thiết tưởng thánh lễ cuộc đời là rất quan trọng,đối với linh mục và mọi tín hữu. Mặc dù thánh lễ bàn thờ vốn là quý giá.

 

Nếu chẳng may, cả thánh lễ bàn thờ lẫn thánh lễ cuộc đời đều bị coi thường, thì đó sẽ là một tai hoạ lớn cho Hội Thánh. Hy vọng trường hợp như thế sẽ không xảy ra.

 

 

 

ĐGM. GB. Bùi Tuần

 

Mục lục

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

NỘI DUNG THƯ ĐỨC THÁNH CHA GỬI CÁC GIÁM MỤC VÀ TỰ SẮC ”SUMMORUM PONTIFICUM”

I. Nội dung thư Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gửi các Giám Mục toàn thế giới liên quan tới ”Tự Sắc” về việc dùng Phụng Vụ Latinh cũ.

Ngày mùng 7-7-2007 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã công bố thư gửi các Giám Mục công giáo toàn thế giới để giới thiệu Tự Sắc ”Summorum Pontificum” về việc dùng phụng vụ Roma trước khi có cuộc cải tổ năm 1970.

Đức Thánh Cha cho biết đây là kết qủa các suy tư, tham khảo và cầu nguyện lâu dài. Ngài trả lời cho hai nỗi lo lắng: thứ nhất là nỗi lo sợ cho rằng việc dùng lễ nghi phụng vụ cũ tiếng Latinh gây thiệt hại cho quyền bính của Công Đồng Chung Vaticăng II và các quyết định của Công Đồng, trong đó có quyết định liên quan tới việc canh cải phụng vụ; và thứ hai là nỗi lo sợ cho rằng việc dùng Sách Lễ cũ tiếng Latinh năm 1962 có thể tạo ra các hỗn loạn và chia rẽ trong các cộng đoàn giáo xứ.

Thư của Đức Thánh Cha muốn trả lời chi tiết hơn cho hai vấn nạn kể trên.

Đức Thánh Cha khẳng định rằng nỗi lo sợ thứ nhất liên quan tới sự nguy hại cho quyền bính của Công Đồng Chung Vaticăng II và các quyết định của Công Đồng, trong đó có các quyết định về việc cải tổ phụng vụ, là sự lo sợ không có nền tảng. Lý do thứ nhất là vì Sách Lễ do Đức Giáo Hoàng Phaolo VI cho in, và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II cho tái bản hai lần, là hình thức bình thường của Phụng Vụ Thánh Thể. Trong khi Ấn bản Sách Lễ Roma tiếng Latinh, do Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cho phát thành năm 1962 và được dùng trong Công Đồng, sẽ có thể là hình thức ngoại thường của việc cử hành phụng vụ. Coi chúng như thể là hai ”lễ nghi” khác nhau thì không đúng. Đúng hơn, đó là hai kiểu dùng của cùng một lễ nghi phụng vụ Thánh Thể duy nhất của Giáo Hội.

Đức Thánh Cha nhắc lại rằng Sách Lễ Roma tiếng Latinh ấn hành năm 1962, như là hình thức ngoại thường của việc cử hành Thánh Thể, đã không bao giờ bị hủy bỏ trên bình diện pháp lý, vì thế, theo nguyên tắc, nó sẽ luôn luôn được phép dùng.

Tiếp tục thư gửi các Giám Mục Đức Thánh Cha giải thích sự kiện này như sau. Khi đưa ra Sách Lễ mới, Giáo Hội đã không thấy cần thiết phải đưa ra các điều lệ riêng cho việc có thể dùng sách lễ cũ tiếng Latinh, chắc hẳn vì đã giả thiết là chỉ có ít trường hợp sử dụng nó và có thể giải quyết từng trường hợp một, tại địa phương. Tuy nhiên sau đó, thì người ta nhận thấy là có không ít người gắn bó với việc dùng Lễ Nghi Roma tiếng Latinh, đã quen thuộc với họ ngay từ ngày còn bé. Điều này xảy ra tại các nước trong đó phong trào phụng vụ đã cống hiến cho giáo dân một sự đào tạo phụng vụ đáng kể và sự quen thuộc sâu xa thân tình với hình thức cử hành phụng vụ có trước. Mọi người đều biết trong phong trào do Đức Tổng Giám Mục Lefevre hướng dẫn, sự trung thành với lễ nghi này trở thành dấu chỉ bề ngoài, nhưng các lý do của sự bẻ gẫy nảy sinh từ đây, có nguồn gốc sâu xa hơn. Nhiều người rõ ràng chấp nhận tính cách bắt buộc của Công Đồng Chung Vaticăng II và trung thành với Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục, nhưng họ cũng ước mong tìm lại được hình thức phụng vụ, mà họ yêu thích. Việc này xảy ra, vì tại nhiều nơi người ta đã không trung thành cử hành theo Sách Lễ mới, mà còn hiểu rằng được phép hay bắt buộc phải tự sáng chế ra phụng vụ, dẫn đưa tới các sai lệch không thể nào chịu nổi. Đức Thánh Cha cho biết chính ngài cũng đã phải sống kinh nghiệm của thời kỳ này với tất cả các chờ mong và các lẫn lộn của nó. Và ngài đã thấy các vết thương sâu rộng, do các sai lạc ấy gây ra nơi những người có lòng tin sâu xa.

Chính vì các lý do trên đây Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã bắt buộc phải công bố Tự Sắc ”Ecclesia Dei” ”Giáo Hội của Thiên Chúa” ngày mùng 2 tháng 7 năm 1988, liên quan tới việc dùng Sách Lễ Roma tiếng Latinh năm 1962, nhưng lại không đưa ra các chỉ dẫn chi tiết, mà chỉ kêu gọi lòng quảng đại của các Giám Mục đối với các ”khát vọng chính đáng” của các tín hữu xin dùng Lễ Nghi Roma tiếng Latinh. Lúc đó, Đức Gioan Phaolo II muốn giúp Huynh đoàn Pio X tìm lại sự hiệp nhất trọn vẹn với Người Kế Vị Thánh Phêrô, và tìm cách chữa lành vết thương ngày càng đau nhức hơn. Nhưng rất tiếc là cho tới nay sự hòa giải đó đã không thành công; tuy nhiên, một loạt các cộng đoàn đã sử dụng sách lễ này với lòng biết ơn đối với những gì Tự Sắc cho phép. Trái lại, việc dùng Sách Lễ năm 1962 ngoài các nhóm này vẫn khó khăn, vì thiếu các điều luật pháp lý chính xác, và trước hết vì trong các trường hợp này, thường khi các Giám Mục lo sợ nó nguy hại cho quyền bính của Công Đồng Chung Vaticăng II.

Thật ra, ngay sau thời Công Đồng Chung Vaticăng II, người ta đã có thể giả thiết là việc xin phép dùng Sách Lễ Latinh năm 1962 sẽ hạn chế cho thế hệ già hơn đã lớn lên với nó, nhưng trong thời gian này người ta nhận thấy cả người trẻ cũng khám phá ra hình thức phụng vụ này và cảm thấy được lôi kéo, và họ tìm được trong đó một hình thức gặp gỡ với Mầu Nhiệm Thánh Thể rất thánh, đặc biệt thích hợp với họ. Vì thế cần phải có một sự giải quyết pháp lý rõ ràng hơn, là điều đã không thể thấy trước vào thời công bố Tự Sắc năm 1988. Các điều lệ này cũng nhằm giải thoát các Giám Mục khỏi nhiệm vụ luôn luôn phải lượng định phải đáp ứng các tình hình khác nhau như thế nào.

Nỗi lo sợ thứ hai cho rằng việc dùng Sách Lễ cũ tiếng Latinh năm 1962 có thể tạo ra các hỗn loạn và chia rẽ trong các cộng đoàn giáo xứ, cũng không có nền tảng. Việc sử dụng nó giả thiết việc được đào tạo về phụng vụ và khả năng hiểu tiếng Latinh. Cả hai yếu tố này đều không là điều thông dụng, vì thế Sách Lễ mới là hình thức bình thường của việc cử hành, không phải chỉ vì luật lệ, mà cũng vì tình trạng thực sự của các cộng đoàn tín hữu nữa.

Có đúng thật là không thiếu những qúa đáng và đôi khi cả những khía cạnh xã hội gắn liền với thái độ của các tín hữu gắn bó với phụng vụ Latinh. Nhưng lòng bác ái và sự thận trọng của các Giám Mục sẽ là một khích lệ và hướng dẫn cho sự cải tiến. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng thật ra cả hai hình thức sẽ làm giầu cho nhau: có thể và cần phải thêm tên các thánh mới và vài kinh tiền tụng mới vào Sách Lễ Roma cũ.

Ủy Ban ”Ecclesia Dei” sẽ nghiên cứu các khả thể thực tiễn. Việc dùng Lễ Nghi Roma theo Sách Lễ do Đức Giáo Hoàng Phaolo VI ban hành có thể biểu lộ một cách rõ ràng hơn, tính cách thánh thiêng của nó, từng lôi cuốn nhiều người. Nó cũng có thể hiệp nhất các cộng đoàn giáo xứ, và biểu lộ sự phong phú tinh thần và chiều kích thần học sâu xa của Sách Lễ này.

Đó là các lý do khiến Đức Thánh Cha Biển Đức XVI công bố Tự Sắc để cập nhật Tự Sắc năm 1988 của Đức Giáo Hoàng Giaon Phaolo II, với mục đích tạo hòa giải và hiệp nhất trong lòng Giáo Hội. Khi nhìn về qúa khứ, về các chia rẽ dọc dài các thế kỷ đã xâu xé Thân Mình của Chúa Kitô, người ta liên lỉ có cảm tưởng rằng trong những lúc khó khăn, trong đó đang xảy ra sự chia rẽ, các vị hữu trách Giáo Hội đã không hoạt động đủ để duy trì hay chiếm hữu được sự hòa giải và hiệp nhất; người ta có cảm tưởng rằng các thiếu sót trong Giáo Hội đã có một phần lỗi khiến cho các chia rẽ đó được củng cố thêm. Hôm nay việc nhìn về qúa khứ đó đưa ra cho chúng ta một đòi buộc: đó là phải làm mọi cố gắng, để tất cả những người thực sự mong muốn sự hiệp nhất, có thể ở lại trong sự hiệp nhất đó và tái tìm ra nó. Đức Thánh Cha trích lại lời thánh Phaolô nói với tín nhữu Corintô trong thư thứ hai gửi cho họ: ”Miệng chúng tôi đã thẳng thắn nói với anh chị em. Hỡi anh chị em Côrintô, con tim của chúng tôi rộng mở cho anh chị em. Chúng tôi không hẹp hòi với anh chị em đâu; chính lòng dạ anh chị em hẹp hòi... Hãy đáp trả lại chúng tôi, hãy rộng mở con tim của anh chị em cho chúng tôi” (2 Cr 6,11-13). Dĩ nhiên, thánh Phaolô đã nói lên điều này trong một bối cảnh khác, nhưng lời người mời gọi có thể và phải đánh động cả chúng ta trong chính đề tài này nữa. Chúng ta hãy quảng đại rộng mở con tim mình và để cho tất cả những gì, mà lòng tin cống hiến cho, có thể bước vào.

Rồi Đức Thánh Cha mạnh mẽ khẳng định như sau: Không có mâu thuẫn nào giữa hai ấn bản Sách Lễ Roma cả. Trong Lịch sử Phụng vụ có các tăng trưởng và tiến triển, nhưng không có đổ vỡ. Điều thánh thiêng và cao cả đối với các thế hệ đi trước cũng vẫn thánh thiêng và cao cả đối với chúng ta ngày nay, và nó không thể bất thình lình bị cấm đoán hoàn hoàn, hay tệ hơn bị coi là nguy hại. Thật là ích lợi cho tất cả chúng ta, khi duy trì được các phong phú đã lớn lên trong lòng tin và lời cầu nguyện của Giáo Hội và dành cho chúng chỗ đứng đúng đắn. Đương nhiên để sống sự hiệp thông tràn đầy, cả các linh mục của các cộng đoàn gắn bó với việc dùng phụng vụ cũ, trên nguyên tắc, cũng không thể loại bỏ việc cử hành theo các sách mới. Thật vậy, sẽ là điều không trung thực, nếu thừa nhận giá trị và sự thánh thiện của lễ nghi mới, mà lại loại trừ hoàn toàn lễ nghi đó.

Sau cùng Đức Thánh Cha nêu bật rằng các điều lệ mới này không giảm thiểu quyền bính và trách nhiệm của các Giám Mục trên phụng vụ cũng như trên mục vụ đối với các tín hữu do các ngài phụ trách. Thật vậy mỗi Giám Mục là người phối hợp phụng vụ trong giáo phận của mình (X. Sacrposanctum Concilium, s. 22: ”Sacrrae Liturgiae moderatio ab Ecclesiae ausctoritate unice pendet quae quidem est apud Apostolicam Sedem et, ad normam iuris, apud Episcopum”).

Không có gì bị lấy khỏi quyền bính của Giám Mục, dầu sao đi nữa vẫn là người có nhiệm vụ canh thức để mọi sự được tiến hành trong an bình và thanh thản. Nếu có xảy ra vài vấn đề, mà cha xứ không thể giải quyết được, thì Vị Bản Quyền địa phương luôn có thể can thiệp, nhưng trong sự hòa hợp trọn vẹn với những gì đã được các điều lệ mới do Tự Sắc ấn định.

Ngoài ra Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mời gọi các Giám Mục viết bản tường trình về cho Tòa Thánh liên quan tới các kinh nghiệm thu thập được trong ba năm tới, sau khi Tự Sắc có hiệu lực, để nếu thực sự có xảy ra một loạt các khó khăn, thỉ có thể tìm phương thế sửa chữa.

Với tất cả lòng biết ơn và tín thác, Đức Thánh Cha phó thác bức thư này và các điều lệ của Tự Sắc cho con tim của các Chủ Chăn, luôn nhớ các lời thánh Phaolô dặn dò các linh mục giáo đoàn Ephêxo: ”Anh em hãy lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên, mà Thánh Thần đã đặt anh em là Giám Mục chăn dắt Giáo Hội của Thiên Chúa, mà Người đã mua bằng máu của chính mình” (Cv 20,28).
   Đức Thánh Cha phó thác cho sự bầu cử của Đức Maria, Mẹ Giáo Hội, các điều lệ mới này và gửi phép lành tòa thánh tới cho tất cả các Giám Muc, các cha xứ, các giáo phận, mọi linh mục và các cộng sự viên cũng như tất cả mọi tín hữu.

II. Nội dung Tông Thư dưới dạng Tự Sắc “Summorum Pontificum” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, về việc dùng Sách Lễ Roma cũ tiếng Latinh

Mở đầu Tự Sắc Đức Thánh Cha viết:

”Từ trước tới nay các Giáo Hoàng đã thường xuyên lo lắng để cho Giáo Hội của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa Uy Nghi việc phụng tự xứng đáng ”để chúc tụng và tôn vinh Danh Người” và ”mưu ích cho toàn thể Hội Thánh Người”.

Từ thời xa xưa cũng như trong tương lai, cần duy trì nguyên tắc, theo đó ”mỗi Giáo Hội địa phương phải phù hợp với Giáo Hội hoàn vũ, không chỉ liên quan tới giáo lý đức tin và các dấu chỉ bí tích, mà cả các thói quen đại đồng được truyền thống tông truyền không gián đoạn chấp nhận nữa, và chúng phải được tuân giữ không chỉ để tránh các sai lầm, mà cũng là để thông truyền lòng tin nguyên vẹn, bởi vì luật lệ cầu nguyện của Giáo Hội tương ứng với luật lệ của lòng tin”.

Trong số các Giáo Hoàng đã chu toàn nhiệm vụ chăm lo như thế, nổi bật có thánh Gregorio Cả, là người đã lo lắng thông truyền cho các dân tộc mới của Âu châu, lòng tin công giáo cũng như các kho tàng của phụng tự và nền văn hóa được người Roma tích lũy từ các thế kỷ trước. Người truyền xác định và duy trì hình thức Phụng Vụ thánh, liên quan tới Hy Tế Thánh Lễ cũng như Kinh Thần Vụ, trong kiểu cử hành tại Roma. Người hết sức lo thăng tiến việc gửi các nam nữ tu sĩ Biển Đức, là những người hoạt động theo Luật của Thánh Biển Đức, tới khắp nơi để cùng với việc loan báo, các tu sĩ minh giải Tin Mừng với chính cuộc sống và phương châm lành mạnh của Lề Luật: “Không đặt để điều gì trước công việc của Thiên Chúa” (ch.43). Như thế, Phụng Vụ thánh được cử hành theo thói quen Roma, không chỉ làm giầu cho đức tin và lòng đạo đức, mà cũng làm giầu cho nền văn hóa của nhiều dân tộc nữa. Thật thế, người ta nhận thấy rằng trong các hình thái khác nhau của nó, trong mỗi thế kỷ của kỷ nguyên Kitô, phụng vụ Latinh của Giáo Hội đã thúc đẩy cuộc sống thiêng liêng của nhiều vị thánh, củng cố nhân đức tôn giáo của biết bao dân tộc, và khiến cho lòng đạo đức của họ trở nên phong phú.

Dọc dài các thế kỷ, nhiều vị Giáo Hoàng khác đã đặc biệt lo cho Phụng Vụ thánh diễn tả nhiệm vụ này ra ngoài một cách hữu hiệu hơn: trong số đó nổi bật là Đức Giáo Hoàng Pio V, là đấng, được nâng đỡ bởi lòng nhiệt thành mục vụ và theo sau sự khích lệ của Công Đồng Chung Trento, đã canh tân toàn việc phụng tự của Giáo Hội, lo in ấn các sách phụng vụ, được tu chính và canh tân theo chuẩn định của các Nghị Phụ và cho dùng trong Giáo Hội Latinh”.

Tiếp tục Tự Sắc Đức Thánh Cha đề cập tới Sách Lễ Roma và viết: ”Trong số các sách phụng vụ theo Lễ Nghi Roma có Sách Lễ Roma, được phát triển trong thành Roma và với thời gian qua đi, từ từ có các hình thái rất giống với hình thái hiện hành trong thời gian gần đây.

“Các Giáo Hoàng trong các thế kỷ tiếp theo đã theo đuổi cùng một mục đích này, bằng cách bảo đảm việc cập nhật hóa và xác định các lễ nghi và các sách phung vụ, rồi vào đầu thế kỷ này bằng cách bắt đầu một cuộc canh cải toàn diện”. Các vị tiền nhiệm của tôi là Clemente VIII, Urbano VIII, thánh Pio X, Biển Đức XV, Pio XII và Gioan XXIII đã hành động như thế.

Trong các thời gian gần đây hơn, Công Đồng Chung Vaticăng II đã bầy tỏ ước mong sự tôn kính xứng đáng đối với phụng vụ thánh cần được canh tân và thích hợp với các nhu cầu của thời đại chúng ta. Được thúc đẩy bởi ước mong đó, năm 1970 vị tiền nhệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolo VI đã phê chuẩn các sách phụng vụ được cải tổ hay canh cải một phần, cho Giáo Hội Latinh. Được dịch ra các thứ tiếng khác nhau trên thế giới, chúng đã được các Giám Mục linh mục và giáo dân tiếp nhận một cách tốt đẹp. Đức Gioan Phaolô II đã tái duyệt ấn bản thứ ba của Sách Lễ Roma. Như thế các Đức Giáo Hoàng đã hành động ”để cho loại tòa nhà phụng vụ này... tái xuất hiện một cách huy hoàng trong phẩm chất và sự hài hòa của nó”.

Nhưng trong một vài miền có không ít các tín hữu còn gắn bó và tiếp tục gắn bó với các hình thức phụng vụ có trước với biết bao nhiêu tình yêu thương mộ mến. Các hình thức đó đã thấm nhuần nền văn hóa và tâm trí của họ một cách sâu đậm, đến độ được thúc đẩy bởi mối quan tâm mục vụ đối với các tín hữu đó, năm 1984 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã cho phép sử dụng Sách Lễ Roma do Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ấn hành năm 1962, với đặc ân ”Quattuor abhinc annos”, do Bộ Phụng Tự ban hành.

Thế rồi năm 1988 Đức Gioan Phaolo II lại ban hành Tông Thư ”Ecclesia Dei” dưới hình thức Tự Sắc, và khích lệ các Giám Mục sử dung một cách rộng rãi và quảng đại năng quyền này, theo yêu cầu của các tín hữu”.

Trong phần thứ hai của Tự Sắc, Đức Thánh Cha xác định các điều lệ liên quan tới việc sử dụng Sách Lễ Roma tiếng Latinh. Ngài viết: ”Theo sau các lời thỉnh cầu khẩn khoản của các tín hữu, đã được Đức Gioan Phaolo II, vị tiền nhiệm của tôi cân nhắc lâu năm, và sau khi lắng nghe các Hồng Y trong Công Nghị Hồng Y ngày 22 tháng 3 năm 2006, cũng như suy tư sâu rộng về mọi khía cạnh của vấn đề, cầu xin Chúa Thánh Thần và tin tưởng nơi sự trợ giúp của Thiên Chúa, với Tông Thư này Chúng Tôi thiết định như sau:

Khoản 1. Sách Lễ Roma do Đức Phaolo VI công bố là kiểu diễn tả bình thường của ”lex orandi” (luật cầu nguyện) của Giáo Hội Công Giáo Latinh. Tuy nhiên, Sách Lễ Roma do thánh Giáo Hoàng Pio V công bố và được Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII cho tái bản, phải được coi như kiểu diễn tả ngoại thường của cùng một ”luật cầu nguyện” đó và phải được tôn trọng cách xứng đáng vì việc sử dụng đáng kính và cổ xưa của nó. Hai kiểu diễn tả này của “luật cầu nguyện” của Giáo Hội sẽ không vì cách nào mà dẫn đưa tới một sự chia rẽ trong ”lex credendi” (luật lòng tin) của Giáo Hội; thật ra, chúng là hai kiểu diễn tả của cùng lễ nghi Roma.

Do đó, được phép cử hành Hiến Tế Thánh Lễ theo ấn bản đặc biệt của Sách Lễ Roma do Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII công bố năm 1962, và đã không bao giờ bị hủy bỏ, như là hình thức ngoại thường của Phụng Vụ Giáo Hội. Các điều kiện để dùng Sách Lễ này hay Sách Lễ kia do hai tài liệu có trước là “Quattuor abhinc annos” và ”Ecclesia Dei”, được thay thế như sau:

Khoản 2. Trong các Thánh Lễ cử hành không có tín hữu, mỗi linh mục công giáo thuộc lễ nghi Latinh, triều hay dòng, có thể dùng Sách Lễ Roma do Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII công bố năm 1962, hay Sách Lễ Roma do Đức Giáo Hoàng Phaolo VI công bố năm 1970, trong bất cứ ngày nào, trừ Tam Nhật Thánh. Để cử hành theo Sách Lễ này hay Sách Lễ kia linh mục không cần có phép của Tòa Thánh cũng như của Vị Bản Quyền.

Khoản 3. Các cộng đoàn của các Tu Hội đời sống thánh hiến hay các Hiệp hội đời sống tông đồ, quyền giáo hoàng hay quyền giáo phận, nếu ước muốn cử hành Thánh Lễ theo Sách Lễ công bố năm 1962 trong các nhà nguyện tu viện hay cộng đoàn mình, đều có thể làm. Nếu một cộng đoàn cá biệt nào hay toàn dòng hoăc hiệp hội muốn có các buổi cử hành như thế thường khi, hay thường xuyên hoặc luôn luôn như vậy, thì điều này phải được các Bề Trên Cả định đoạt theo điều lệ của luật và theo các luật lệ và quy chế đặc biệt.

Khoản 4. Cũng có thể chấp nhận cho các giáo hữu tham dự các buổi cử hành Thánh Lễ như quy định ở khoản 2 nói trên, và tuân theo các điều lệ của luật, khi họ tự phát xin được tham dự.

Khoản 5 triệt 1. Trong các giáo xứ, trong đó có một nhóm giáo dân thường xuyên gắn bó với truyền thống phụng vụ thời trước, thì cha xứ hãy sẵn sàng chấp nhận đòi hỏi của họ để dâng Thánh lễ theo lễ nghi của Sách Lễ Roma ấn hành năm 1962. Phải tiên liệu để thiện ích của các giáo dân này hòa hợp với việc chăm sóc mục vụ bình thường của giáo xứ, dưới sự hướng dẫn của Giám Mục theo khoản 392 của giáo luật, để tránh sự bất hòa và phát huy sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội.

Khoản 5 triệt 2. Việc cử hành theo Sách lễ của Chân phước Gioan XXIII có thể làm vào các ngày trong tuần; trong các ngày Chúa Nhật hay lễ trọng cũng có thể có một buổi cử hành loại này.

Khoản 5 triệt 3. Đối với các giáo dân và linh mục xin, cha xứ hãy cho phép cử hành hình thức ngoại thường này cả trong các trường hợp đặc biệt như hôn phối, đám tang hay các buổi cử hành tùy dịp như các cuộc hành hương.

Khoản 5 triệt 4. Các linh mục sử dụng Sách Lễ của Chân Phước Gioan XXIII, phải là các vị xứng đáng và không bị ngăn trở trên bình diện giáo luật.

Khoản 5 triệt 5. Trong các nhà thờ không phải là nhà thờ của giáo xứ hay tu viện, vị Giám quản đền thờ có thể cho phép cử hành thánh lễ như đã nói trên đây.

Khoản 6. Trong các Thánh Lễ cử hành với dân chúng theo Sách Lễ của Chân Phước Gioan XXIII, các bài đọc có thể được công bố cả trong tiếng bản xứ, theo các ấn bản được Tòa Thánh thừa nhận.

Khoản 7. Nếu có một nhóm giáo dân, như khoản 5 triệt 1 đã nói tới, không được cha sở thỏa mãn các yêu cầu của mình, thì báo cho Đức Giám Muc giáo phận biết. Vị Giám Mục được yêu cầu chấp nhận ước mong của họ. Nếu người không thể lo liệu cho việc cử hành như thế, thì trình sự việc lên Ủy Ban Giáo Hoàng ”Ecclesia Dei”.

Khoản 8. Vị Giám Mục nào ước ao đáp ứng các thỉnh cầu của tín hữu giáo dân, nhưng bị ngăn trở vì các lý do khác nhau, có thể tường trình vấn đề lên Ủy Ban ”Ecclesiae Dei” để Ủy ban cố vấn và giúp đỡ.

Khoản 9 triệt 1. Sau khi chú ý xem xét mọi sự, cha sở cũng có thể cho phép dùng lễ nghi cũ trong việc ban các bí tích Rửa Tội, Hôn Phối, Giải Tội và Xức Dầu bệnh nhân, nếu đó là lợi ích của các linh hồn.

Khoản 9 triệt 2. Các Vị Giám Mục Bản Quyền được năng quyền cử hành bí tích Thên Sức bằng cách dùng Sách Nghi Lễ Roma cũ, khi thấy có lợi cho các linh hồn.

Khoản 9 triệt 3. Các giáo sĩ có chức thánh được quyền dùng Sách Thần Vụ do Chân Phước Gioan XXIII công bố năm 1962.

Khoản 10. Nếu xét thấy thuận lợi, Đấng Bản Quyền có thể thành lập một giáo xứ tòng nhân theo khoản 518 của Giáo Luật, cho các buổi cử hành theo hình thức cũ của lễ nghi Roma, hay chỉ định một vị tuyên úy, theo các điều lệ của giáo luật.

Khoản 11. Ủy Ban Giáo Hoàng ”Ecclesia Dei”, do Đức Gioan Phaolo II thành lập năm 1988, tiếp tục thi hành nhiệm vụ của mình.

Ủy Ban này có hình thức, các nhiệm vụ và các điều lệ mà Đức Giáo Hoàng sẽ giao cho.

Khoản 12. Ngoài những năng quyền đã có sẵn, Ủy Ban này sẽ thi hành quyền của Tòa thánh bằng cách canh chừng việc tuân giữ và áp dụng các quy định trên đây.

Tất cả những gì đã do Chúng Tôi thiết định với Tông Thư trong dạng Tự Sắc này, chúng tôi truyền phải được coi như ”thiết định và chỉ thị”, và phải được tuân giữ từ ngày 14 tháng 9 năm nay, lễ Tôn Vinh Thánh Giá. Tất cả những gì đi ngược lại những gì chúng tôi ban bố đều không có hiệu lực.

Ban hành tại Roma, gần Đền Thánh Phêrô ngày mùng 7 tháng 7 năm 2007, năm thứ ba triều đại Giáo Hoàng của chúng tôi.

(SD 7-7-2007)

Linh Tiến Khải

Mục lục

 

Bức Thư của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI gởi cho Giáo Hội tại Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa.

 

Thứ Bảy, ngày 30 tháng 6 năm 2007, Phòng Báo Chí Toà Thánh đã chính thức công bố bức thư của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI gởi cho Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc, với tựa đề chính thức như sau:

Thư của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI gởi Các Giám Mục, Linh Mục, Những Người Sống Ðời Thánh Hiến và Anh chị em Tín Hữu Giáo Dân của Giáo Hội Công Giáo tại Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa.

Bức Thư được công bố ngay từ đầu trong các thứ tiếng sau đây: Tiếng Mandarin Truyền Thống (được xử dụng tại Ðài Loan), Tiếng Mandarin Ðơn Giản Hoá (được xử dụng tại Trung Quốc), Tiếng Pháp, Tiếng Anh và Tiếng Ý. Chúng tôi dựa theo Bản Tiếng Ý để chuyển dịch bức thư này sang tiếng Việt. Tuy nhiên, chúng tôi cũng tham khảo và so sánh với bản văn tiếng Anh và Tiếng Pháp.

Bức Thư đã được Ðức Thánh Cha ấn ký "tại Roma, cạnh Ðền Thờ Thánh Phêrô, ngày 27 tháng 5, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, năm 2007, năm thứ ba của triều giáo hoàng."

Bản Văn Tiếng Ý của Bức Thư dài 21 trang, và được ghi số, từ 1 cho đến 20. Nhìn vào Dàn Bài của Bức Thư, chúng ta ghi nhận như sau: không kể phần nhập đề và kết luận, Bức Thư có hai phần chính.

Phần I, có tựa đề là: Hoàn Cảnh của Giáo Hội. Những Khía Cạnh Thần Học. Từ số 3 cho đến hết số 9.

Phần II có tựa đề: Những Ðịnh Hướng cho Sinh Hoạt Mục Vụ. Từ số 10 cho đến hết số 17.

Kết luận bức thư có ba số 18, 19 và 20.

Nơi số 1, Lời chào thăm, ÐTC Bênêđitô XVI đã viết như sau:

1. Lời Chào Thăm.

Chư Huynh Giám Mục đáng kính, các linh mục, những người sống đời tận hiến và tất cả các tín hữu rất thân mến của Giáo Hội công giáo tại Trung Hoa, "chúng tôi liên lỉ cảm tạ Thiên Chúa, Cha của Chúa chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, trong những lời cầu nguyện cho anh chị em, vì những tin tức nhận được về đức tin của anh chị em vào Chúa Giêsu Kitô và về đức bác ái anh chị em có đối với tất cả các thánh, trong viễn tượng niềm hy vọng đang chờ đợi anh chị em trên trời... Chúng tôi không ngừng cầu nguyện cho anh chị em và xin cho anh chị em được hiểu biết trọn vẹn thánh ý Chúa, với mọi sự khôn ngoan và thông hiểu thiêng liêng, ngõ hầu anh chị em có thể hành xử một cách xứng đáng với Chúa, để làm vui lòng Người trong tất cả mọi sự, vừa trổ sinh hoa trái trong mọi việc làm tốt, lớn lên trong sự hiểu biết Thiên Chúa, và cố gắng với hết sức mình theo quyền năng vinh quang của Chúa, để có thể trở nên mạnh mẽ và kiên trì trong mọi sự." (Thư Colossê 1,3-5 và 9-11).

Những lời trên của Thánh Phaolô Tông Ðồ là thích hợp hơn bao giờ hết, để diễn tả những tâm tình mà Tôi, --- như là người kế vị Thánh Phêrô và như là Chủ chăn phổ quát của Giáo Hội, --- có đối với anh chị em. Anh chị em biết rõ anh chị em hiện diện trong tim tôi và trong lời cầu nguyện hằng ngày của tôi như thế nào; và anh chị em biết rõ mối tương quan hiệp thông đang liên kết chúng ta một cách thiêng liêng, là sâu đậm biết bao.

2. Mục đích của Bức Thư.

Vì thế, Tôi muốn gởi đến tất cả anh chị em những biểu lộ của sự gần gủi huynh đệ. Tôi vui mừng hết sức vì lòng trung thành của anh chị em với Chúa Kitô, và với Giáo Hội, lòng trung thành mà anh chị em đã biểu lộ nhiều lần "cả với giá phải trả là những hy sinh nặng nề", (1) bởi vì "nhờ Chúa Kitô, anh chị em được ban cho hồng ân không những tin vào Chúa, mà còn chịu khổ vì Chúa." (Phil 1,29).

Tuy nhiên, cũng không thiếu những quan tâm đối với vài khía cạnh của đời sống giáo hội trong đất nước anh chị em.

Tôi không có tham vọng bàn đến mọi khía cạnh riêng biệt của những vấn đề phức tạp mà anh chị em biết rõ; với bức thư này, Tôi muốn cống hiến vài định hướng cho sinh hoạt của Giáo Hội và cho công việc rao giảng Phúc âm tại Trung Hoa, để giúp anh chị em khám phá điều mà Chúa và Thầy chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, đòi hỏi nơi anh chị em, Ngài là "chìa khoá, là trung tâm, và cùng đích của trọn cả lịch sử nhân loại." (2). 

Phần I: Hoàn cảnh của Giáo Hội: những khía cạnh thần học.

3. Sự toàn cầu hoá, sự hiện đại và chủ thuyết vô thần.

Khi chú ý nhìn vào Dân Tộc của anh chị em, một dân tộc nổi bật giữa những dân tộc khác tại Á Châu vì sự sáng ngời của nền văn minh trải dài hàng ngàn năm, với tất cả kinh nghiệm về khôn ngoan, triết học, khoa học và nghệ thuật, tôi vui mừng nhắc đến cách thức dân tộc của anh chị em, nhất là trong thời gian gần đây, đã hướng đến việc đạt cho được những mục tiêu có ý nghĩa về tiến bộ kinh tế - xã hội, vừa thu hút sự chú ý của toàn thế giới.

Như vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Ðức Gioan Phaolô II, đã nhấn mạnh, "về phần mình, giáo hội công giáo, với thái độ tôn trọng, cũng nhìn về tiến bộ đáng phục này và về kế hoạch dài hạn và với sự cẩn trọng, giáo hội cống hiến một đóng góp đặc biệt trong việc cổ võ và bảo vệ nhân vị, những giá trị của nhân vị, cổ võ và bảo vệ nền tu đức và ơn gọi siêu việt của nhân vị. Giáo hội hết sức quan tâm đến những giá trị và những mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu, cả cho Trung Quốc tân tiến hiện đại, như tình liên đới, hoà bình, công bằng xã hội, việc quản lý sáng suốt hiện tượng toàn cầu hoá" (3).

Sức cố gắng hướng đến sự phát triển cần thiết và được ao ước trên bình diện kinh tế và xã hội, sự mưu tìm mức sống hiện đại, (cố gắng phát triển và mưu tìm mức sống hiện đại) cả hai điều này được đi kèm với hai hiện tượng khác nhau và đối nghịch nhau, nhưng cần được lượng định như nhau, một cách cẩn thận và với tinh thần tông đồ đích thực. Một bên, người ta ghi nhận, nhất là nơi giới trẻ, có gia tăng sự chú ý đến chiều kích thiêng liêng và siêu việt của nhân vị, và từ đó kéo theo quan tâm đến tôn giáo, nhất là kitô giáo. Ðàng khác, người ta lưu ý, cả tại Trung Quốc, khuynh hướng chạy theo chủ thuyết duy vật và chủ thuyết tìm hưởng thụ khoái lạc, mà từ các thành phố lớn được phổ biến rộng ra bên trong đất nước" (4).

Trong hoàn cảnh như thế, trong đó anh chị em được mời gọi sinh sống và hoạt động, tôi muốn nhắc anh chị em nhớ lại tất cả những gì Ðức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh cách mạnh mẽ và cương quyết như sau: công cuộc tái rao giảng phúc âm đòi buộc loan báo Tin Mừng (5) cho con người ngày nay, với ý thức rằng: cũng như trong ngàn năm thứ nhất của kỷ nguyên kitô, Thánh Giá đã được dựng lên tại Âu Châu, rồi trong ngàn năm thứ hai Thánh Giá được dựng lên tại Mỹ Châu và Phi Châu, thì cũng thế trong ngàn năm thứ ba, một mùa gặt đức tin sẽ được thu hoạch tại đại lục á châu bao la và đầy sức sống (6).

"Duc in Altum!" "Hãy ra khơi!" (Lc 5,4). Ngày hôm nay, những lời này vang lên cho chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy nhớ lại quá khứ với lòng tri ân, hãy sống hiện tại cách mê say, và hãy mở rộng đón nhận tương lai với lòng tín thác: "Chúa Giêsu Kitô vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời!" (Dt 13,8)" (7). Cả tại Trung Quốc, Giáo Hội được mời gọi hãy trở nên chứng nhân của Chúa Kitô, hãy nhìn về phía trước với niềm hy vọng, hãy đáp ứng một cách tương xứng --- trong việc loan báo Tin Mừng --- với những thách thức mới mà dân chúng Trung Quốc đang phải đương đầu.

Lời Chúa giúp chúng ta, một lần nữa, biết khám phá ý nghĩa nhiệm mầu và sâu xa của cuộc hành trình của Giáo Hội trong thế giới. Thật vậy, một trong những "thị kiến chính của sách Khải Huyền là thị kiến về Chiên Con trong tư thế mở cuốn sách ra; đây là cuốn sách mà trước đó đã được niêm lại bằng bảy dấu ấn mà không ai có thể mở được. Còn tông đồ Gioan thì được trình bày trong thị kiến trong tư thế đang khóc, bởi vì trước đó đã không tìm được ai xứng đáng để mở sách ra và đọc được nó (x. Kh 5,4). Lịch sử nhân loại không thể nào được giải mả, không thể nào được hiểu. Không ai có thể hiểu được nó. Có lẽ tiếng khóc của Gioan trước mầu nhiệm ưu tối của lịch sử nhân loại, nói lên sự ngỡ ngàng của các giáo hội tại á châu, vì thái độ im lặng của Thiên Chúa trước những bách hại mà các giáo hội phải chịu trong giờ phút này. Ðây là một sự ngỡ ngàng mà trong đó có phản ánh sự khiếp sợ của chúng ta trước những khó khăn trầm trọng, những hiểu lầm và những thù nghịch mà giáo hội phải chịu tại nhiều nơi trên thế giới. Ðó là những đau khổ mà giáo hội không đáng phải chịu, cũng như Chúa Giêsu không đáng phải chịu hình khổ như vậy. Những đau khổ đó biểu lộ sự độc ác của con người khi họ chiều theo những gợi ý của sự dữ, nhưng cũng biểu lộ tài điều khiển của Thiên Chúa trên các biến cố" (8).

Ngày nay cũng như trong quá khứ, rao giảng Phúc âm có nghĩa là rao giảng và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh chết và đã sống lại; Ngài là Con người mới, đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngài cho phép con người bước vào trong chiều kích mới, trong đó lòng nhân từ và tình thương, cả đối với kẻ thù, cả hai đều làm chứng cho chiến thắng của Thập Giá trên mọi sự yếu đuối và khốn cùng của con người.

Trong đất nước của anh chị em, việc rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh chết và sống lại, sẽ là điều có thể được trong mức độ anh chị em biết thực hiện những dấu chỉ của tình thương và hiệp nhất, cùng với lòng trung thành với Tin Mừng, trong sự hiệp thông với Người Kế Vị Thánh Phêrô và hiệp thông với giáo hội toàn cầu. "Như Thầy đã yêu thương chúng con, chúng con cũng phải yêu thương nhau. Từ dấu này mà tất cả sẽ biết rằng chúng con là môn đệ của thầy, nếu chúng con yêu thương nhau.. Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ được nên một trong chúng ta, ngõ hầu thế gian tin rằng cha đã sai con." (Gn 13, 34-35; 17,21).  

4. Sẵn sàng đối thoại trong tinh thần tôn trọng và xây dựng.

Như là chủ chăn của toàn thể giáo hội, tôi muốn nói lên lòng biết ơn mãnh liệt đối với Chúa, vì chứng tá đầy đau khổ cho thấy sự trung thành của cộng đoàn công giáo trung quốc trong những hoàn cảnh thật sự khó khăn. Ðồng thời tôi cảm thấy khẩn thiết phải củng cố trong đức tin những người công giáo trung quốc và cổ võ sự hiệp nhất của họ, bằng những phương thế riêng của giáo hội; đây là bổn phận sâu xa và không thể chối từ được và là một biểu lộ tình yêu thương của một người cha nơi tôi.

Tôi hết sức quan tâm theo dõi những thăng trầm của toàn thể dân tộc trung hoa, mà tôi hết sức đánh giá cao và có những tâm tình thân thiện, cho đến mức ước mong "được mau nhìn thấy thiết lập những con đường cụ thể để liên lạc và cộng tác giữa Toà Thánh và Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc", bởi vì tình bằng hữu được nuôi dưỡng bởi những tiếp xúc, bởi những chia sẻ tâm tình trong những hoàn cảnh vui buồn, bởi tình liên đới và bởi việc trao đổi sự trợ giúp" (9). Chính trong viễn tượng như thế mà vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, đã nói thêm rằng: "Không phải là một bí mật cho ai cả, việc Toà Thánh, nhân danh toàn thể giáo hội công giáo và - theo tôi nghĩ - vì lợi cho toàn thể nhân loại, (việc Toà Thánh) cầu mong mở ra một khoảng rộng để đối thoại với những Thẩm Quyền của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc; trong khoảng rộng để đối thoại này, một khi đã vượt qua được những hiểu lầm của quá khứ, người ta có thể làm việc chung cho thiện ích của dân tộc Trung hoa và cho nền hoà bình thế giới." (10). Tôi ý thức rằng việc bình thường hoá những tương quan với Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, đòi hỏi thời gian và giả thiết phải có thiện chí của hai bên. Từ phía mình, Toà Thánh luôn trong tình trạng sẵn sàng đón nhận những thương thuyết cần thiết để vượt qua giây phút khó khăn hiện tại.

Thật vậy, tình trạng nặng nề này do những hiểu lầm và những sự không thông hiểu nhau, không có lợi cho Thẩm quyền của Trung Quốc và cũng không có lợi gì cho giáo hội công giáo tại Trung Quốc. Như Ðức Gioan Phaolô II đã tuyên bố, khi nhắc lại tất cả những gì Cha Matteo Ricci ngày xưa đã viết từ Bắc Kinh (11), "giáo hội công giáo ngày hôm nay không yêu cầu Trung Quốc và những Thẩm quyền chính trị ban cho bất cứ đặc ân nào, nhưng chỉ xin một điều duy nhất là có thể mở lại đối thoại, để đạt đến một tương quan được dệt nên bởi sự tôn trọng lẫn nhau và bởi sự hiểu biết sâu xa" (12). Ước gì Trung Quốc biết được điều này rằng: giáo hội công giáo có sẵn đề nghị muốn cống hiến một lần nữa việc phục vụ khiêm tốn và không vụ lợi, trong những gì thuộc khả năng của giáo hội, để làm ích cho những người công giáo trung hoa và để làm ích cho tất cả mọi người dân sinh sống tại Trung Quốc. Còn về những gì có liên quan đến những tương quan giữa cộng đoàn chính trị và giáo hội tại Trung Quốc, thì nên nhớ lại giáo huấn sáng chói của Công Ðồng Vaticanô II như sau: "Giáo Hội, xét vì tác vụ và vì khả năng chuyên biệt của mình, không đồng hoá mình như là một cộng đồng chính trị, và cũng không liên kết với bất cứ hệ thống chính trị nào; giáo hội là dấu chỉ và là sự bảo vệ cho tính cách siêu việt của con người." Và Ðức Gioan Phaolô II tiếp tục như sau: "Trong lãnh vực riêng của mình, cộng đoàn chính trị và giáo hội độc lập với nhau và tự quản. Tuy nhiên, cả hai, dù dưới danh hiệu khác nhau, đều phục vụ cho ơn gọi cá nhân và xã hội của cùng những người như nhau. Cả hai sẽ chu toàn công việc phục vụ của mình, để làm ích cho tất cả, trong cách thức càng hữu hiệu, nếu cả hai càng vun trồng sự cộng tác với nhau, vừa lưu ý đến những hoàn cảnh về nơi chốn và thời gian" (13).

Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc có sứ mạng không phải thay đổi cơ cấu hoặc thay đổi việc quản trị đất nước, nhưng có sứ mạng rao giảng cho con người biết Chúa Kitô, Ðấng cứu rỗi thế gian, dựa trên sức mạnh của Thiên Chúa, khi chu toàn công việc tông đồ của mình. Như Tôi đã nhắc lại trong thông điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu", "Giáo Hội không thể và cũng không nên dành lấy trong tay công cuộc tranh đấu chính trị để thực hiện một xã hội công bằng hơn có thể. Giáo Hội không thể và không nên đặt mình vào chổ của Nhà nước. Nhưng giáo hội cũng không thể và không nên đứng bên lề trong cuộc chiến cho công bằng. Giáo Hội cần phải nhập cuộc trong cuộc tranh đấu này, qua bởi con đường lý luận theo lý trí và giáo hội phải thức tỉnh những sức mạnh tinh thần; nếu không có những sức mạnh tinh thần này, thì sự công bằng không thể nào được thể hiện và phát triển, một sự công bằng luôn đòi hỏi cả những hy sinh từ bỏ. Xã hội công bằng không thể là công việc của Giáo Hội, nhưng cần được thực hiện bởi chính trị. Tuy nhiên, hoạt động cho công bằng, và làm cho trí khôn và ý chí cởi mở chấp nhận những đòi hỏi của điều thiện, đó là quan tâm sâu xa của giáo hội." (14)

Theo ánh sáng của những nguyên tắc trên, giải pháp cho những vấn đề hiện có, không thể nào được kiếm tìm theo con đường của sự xung đột thường xuyên với những Thẩm Quyền Dân Sự hợp pháp; đồng thời không thể nào chấp nhận một sự "nuông chiều theo" những Thẩm Quyền dân sự, khi những thẩm quyền này xen mình không đúng vào những việc liên quan đến đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Những thẩm quyền dân sự ý thức rõ rằng Giáo Hội, trong giáo huấn của mình, kêu gọi các tín hữu hãy là những công dân tốt, hãy là những cộng tác viên đầy tinh thần tôn trọng và tích cực, để thực hiện công ích của đất nước họ, nhưng cũng rõ ràng rằng Giáo hội yêu cầu Nhà Nước hãy bảo đảm cho những công dân công giáo này được thực thi hoàn toàn đức tin của họ, trong sự tôn trọng sự tự do tôn giáo đích thực. 

5. Sự hiệp thông giữa những giáo hội địa phương trong Giáo Hội phổ quát.

Hỡi Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc, một đoàn chiên nhỏ hiện diện và hoạt động trong khung cảnh rộng mênh mông của một dân tộc đông đúc đang hành trình trong lịch sử, những lời sau đây của Chúa vang lên đầy sức khích lệ và thách thức biết là chừng nào: "Ðừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ, bởi vì Cha trên trời đã vui lòng ban cho anh chị em Nước Trời" (Lc 12,32)! "Chúng con là muối đất... là ánh sáng thế gian"; vì thế, "ước gì được chiếu lên ánh sáng của chúng con trước mặt mọi người, ngõ hầu họ nhìn thấy những việc làm tốt của chúng con, và ngợi khen Cha chúng con trên trời" (Mt 5,13.14.16).

Trong Giáo hội công giáo tại Trung Quốc, có hiện diện Giáo hội phổ quát, là Giáo Hội của Chúa Kitô, nghĩa là cộng đoàn phổ quát những môn đệ Chúa --- mà trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền. Như anh chị em biết, sự hiệp nhất sâu xa, một sự hiệp nhất liên kết lại với nhau những giáo hội địa phương tại Trung Quốc và đặt những giáo hội địa phương này trong sự hiệp thông sâu xa với tất cả mọi giáo hội địa phương khác, rải rác trên khắp thế giới, --- (sự hiệp nhất sâu xa này) được ăn rễ trong đức tin và trong bí tích rửa tội, nhất là trong bí tích Thánh Thể và trong hàng giám mục (15). Và sự hiệp nhất của hàng giám mục, --- mà "vị giáo hoàng Roma, trong tư cách người kế vị thánh Phêrô, là nguyên tắc và là nền tảng hữu hình và thường hằng" (16) --- (sự hiệp nhất này của hàng giám mục) được tiếp tục qua các thế kỷ, nhờ qua sự tiếp nối tông đồ và là nền tảng cho Giáo Hội mọi thời đại được luôn giống với Giáo hội đã được Chúa Kitô thiết lập, trên nền tảng tông đồ Phêrô và trên các tông đồ khác (17). Giáo lý công giáo dạy rằng giám mục là nguyên tắc và là nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trong giáo hội địa phương được trao phó cho thừa tác vụ mục vụ giám mục của ngài (18). Nhưng trong mọi giáo hội địa phương, --- ngõ hầu được trọn vẹn là giáo hội, --- thì phải có sự hiện diện của quyền hành tối cao của giáo hội, nghĩa là của giám mục đoàn cùng với thủ lãnh là vị giáo hoàng Roma, và không bao giờ mà không có ngài. Vì thế, thừa tác vụ của người kế vị thánh Phêrô thuộc về yếu tính của mọi giáo hội địa phương "xét từ bên trong" (19). Ngoài ra, sự hiệp thông của tất cả mọi Giáo hội địa phương trong một Giáo hội công giáo duy nhất, và do đó, sự hiệp thông có trật tự trong phẩm trật của tất cả các giám mục, những người kế vị các Tông Ðồ, với người kế vị Thánh Phêrô, là bảo đảm cho sự hiệp nhất trong đức tin và trong đời sống của tất cả mọi người công giáo. Vì thế, điều cần thiết, đối với sự hiệp nhất của Giáo Hội trong từng quốc gia, là mọi giám mục được hiệp thông với các giám mục khác, và tất cả các giám mục được hiệp thông hữu hình và cụ thể với Ðức giáo hoàng.

Không ai trong giáo hội là người khách lạ, nhưng tất cả là "công dân" thành phần của cùng một Dân, là thành phần của cùng một Nhiệm Thể Chúa Kitô. Mối giây hiệp thông bí tích là bí tích Thánh Thể, được bảo đảm bởi thừa tác vụ của các giám mục và của những linh mục (20).

Trọn cả Giáo hội tại Trung Quốc, được mời gọi sống và biểu lộ sự hiệp nhất này trong một tu đức hiệp thông phong phú hơn; ước gì tu đức hiệp thông này, --- tuỳ theo những hoàn cảnh phức tạp cụ thể trong đó cộng đồng công giáo phải trải qua, --- được tăng trưởng trong sự hiệp thông phẩm trật hài hoà. Vì thế, các chủ chăn và tín hữu đều được mời gọi bảo vệ và duy trì điều thuộc về giáo lý và truyền thống của Giáo Hội.

  6: Những căng thẳng và chia rẽ trong nội bộ giáo hội: tha thứ và hoà giải.

Khi ngỏ lời với toàn thể giáo hội qua tông thư "Bước vào ngàn năm mới", vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Ðức Gioan Phaolô II, đã quả quyết rằng "trách vụ to lớn, --- trong đó cần có một dấn thân nhất quyết và theo chương trình đã soạn, trên bình diện giáo hội phổ quát và các giáo hội địa phương, --- rằng "trách vụ to lớn đó" là trách vụ hiệp thông (koinonia); trách vụ này nhập thể và biểu lộ chính yếu tính của mầu nhiệm giáo hội. Sự hiệp thông là hoa trái và là sự biểu lộ của tình thương phát xuất từ con tim của Thiên Chúa Cha hằng hữu, được đổ tràn vào trong chúng ta nhờ qua Thánh Thần, mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta (x. Roma 5,5), để làm cho tất cả chúng ta trở nên "một con tim và một linh hồn" (TÐCV 4,32). Chính khi thực hiện sự hiệp thông tình yêu này mà Giáo Hội được biểu lộ như là "bí tích", nghĩa là như "dấu chỉ và phương tiện của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể gia đình nhân loại." Những lời của Chúa về vấn đề này, là quá rõ ràng để có thể giảm bớt tầm mức của những lời đó. Biết bao điều, cả trong thế kỷ mới đến này, sẽ là điều cần thiết cho cuộc hành trình lịch sử của Giáo Hội; nhưng nếu thiếu đi tình bác ái (agapê), thì tất cả sẽ vô ích. Chính thánh tông đồ Phaolô là người nhắc cho chúng ta điều nầy trong bài ca Ðức bác ái, như sau: nếu giả như chúng ta nói được những ngôn ngữ của con người và những ngôn ngữ của các thiên thần, và cả khi chúng ta có một đức tin "chuyển núi dời non", mà chúng ta lại không có bác ái, thì tất cả sẽ là như không (x. 1Co 13,2). Quả thật, đức bác ái là "con tim" của Giáo Hội" (21).

Những chỉ dẫn trên, liên quan đến chính bản chất của Giáo Hội phổ quát, có một ý nghĩa đặc biệt cho Giáo Hội tại Trung Quốc. Thật vậy, không thiếu những vấn đề mà giáo hội đang phải đương đầu, để vượt qua những căng thẳng, những chia rẽ và những kết án, bên trong nội bộ giáo hội cũng như trong những tương quan với xã hội dân sự trung hoa.

Về vấn đề này, trong năm vừa qua, khi nói về Giáo Hội sơ khai, Tôi đã lưu ý rằng "cộng đoàn những môn đệ ngay từ đầu cảm nghiệm không những niềm vui của Thánh Thần, không những biết đến ân sủng sự thật và tình thương, nhưng còn biết đến sự thử thách, kết thành do bởi nhất là những tương phản về những sự thật đức tin, kéo theo hậu quả là những rạn nứt trong sự hiệp thông. Cũng như sự hiệp thông của tình yêu có mặt ngay từ khởi đầu và sẽ còn cho đến cùng (x. 1 Gn 1,1tt), thì cũng thế, buồn thay, ngay từ đầu cũng có mặt sự chia rẽ. Chúng ta không nên ngạc nhiên sự chia rẽ cũng có mặt cả ngày hôm nay (...). Do đó, trong những biến cố của thế trần và trong những yếu đuối của Giáo Hội, luôn có nguy hiểm mất đức tin, và như thế cũng có nguy hiểm mất tình thương và tình huynh đệ. Và từ đó, bổn phận rõ ràng của kẻ tin vào Giáo Hội của tình thương và muốn sống trong giáo hội của tình thương, là nhìn nhận nguy hiểm này." (22)

Lịch sử của Giáo Hội dạy chúng ta rằng không thể biểu lộ một sự hiệp thông đích thực, nếu không có cố gắng hoà giải (23). Thật vậy, sự thanh luyện ký ức, sự tha thứ cho kẻ đã làm điều xấu, sự quên đi những lỗi lầm phải chịu và sự làm hoà lại các tâm hồn trong tình thương, cần được thực hiện nhân danh Chúa Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại; tất cả những điều trên có thể đòi buộc ta vượt qua những lập trường hay những cái nhìn riêng cá nhân, phát sinh do bởi những kinh nghiệm khổ đau hay khó khăn, nhưng đó là những bước khẩn thiết cần được thực hiện để gia tăng và biểu lộ những mối giây hiệp thông giữa các tín hữu và những chủ chăn của Giáo Hội tại Trung Quốc.

Vì thế, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, đã ngỏ lời với anh chị em nhiều lần, để khẩn thiết mời gọi anh chị em hãy tha thứ và giải hoà. Về vấn đề nầy, tôi muốn nhắc lại một đoạn trích từ sứ điệp mà ngài đã gởi đến anh chị em dịp sắp đến Năm Thánh 2000 như sau: "Khi anh chị em chuẩn bị cử hành Ðại Năm Thánh, thì anh chị em hãy nhớ rằng trong truyền thống kinh thánh, một giây phút như thế luôn có mang theo sự bắt buộc phải tha đi những món nợ nhau người nầy tha cho người kia, phải đền bù những bất công đã gây ra và giải hoà với người lân cận. Niềm vui lớn đã được loan báo cho anh chị em, "niềm vui được chuẩn bị cho các dân tộc": đó là tình thương và lòng nhân từ của Thiên Chúa Cha; đó là ơn cứu rỗi do Chúa Kitô thực hiện. Trong mức độ anh chị em sẵn sàng chấp nhận lời rao giảng vui tươi này, anh chị em có thể lưu truyền niềm vui đó, bằng đời sống của mình, cho tất cả mọi người nam nữ gần bên. Ao ước nồng nhiệt của Tôi là anh chị em tuân theo những gợi ý của Chúa Thánh Thần trong nội tâm mình, vừa tha thứ cho nhau tất cả những gì cần được tha thứ, xích lại gần nhau, chấp nhận lẫn nhau, vượt qua được những rào cản, để tiến qua khỏi tất cả những gì có thể gây chia rẽ. Anh chị em đừng quên những lời của Chúa Giêsu trong bửa Tiệc Ly như sau: "Do bởi dấu này mà tất cả sẽ biết chúng con là môn đệ của thầy, nếu chúng con yêu thương nhau" (Gn 13,35). Tôi đã vui mừng biết được rằng anh chị em muốn dâng lên, --- như món quà quý giá nhất cho việc cử hành Ðại Năm Thánh --- (dâng lên) món quà sự hiệp nhất giữa anh chị em với nhau và với người kế vị Thánh Phêrô. Một việc như thế không thể là gì khác hơn là hoa trái của Thánh Thần, Ðấng hướng dẫn Giáo Hội trên những con đường khó khăn của sự hoà giải và hiệp nhất" (24).

Tất cả chúng ta đều ý thức rằng con đường này không thể nào thực hiện được liền ngay vào ngày hôm sau, nhưng anh chị em hãy tin chắc rằng toàn thể Giáo Hội sẽ dâng lên những lời khẩn nguyện cho anh chị em, để đạt đến mục tiêu vừa nói trên.

Anh chị em hãy biết rằng con đường hoà giải anh chị em đang đi, được nâng đỡ bởi mẫu gương và bởi lời cầu nguyện của "biết bao chứng nhân đức tin" đã phải đau khổ và đã tha thứ, vừa hiến dâng đời sống họ cho tương lai của Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc. Chính cuộc sống của họ là lời chúc lành liên lỉ cho anh chị em nơi Cha trên trời, và việc tưởng nhớ đến các ngài chắc chắn sẽ làm trổ sinh những hoa trái phong phú.  

7. Những cộng đoàn giáo hội và các cơ quan nhà nước: những tương quan cần được sống trong sự thật và trong tình bác ái.

Một chú ý phân tích về hoàn cảnh đau khổ như vừa được nhắc lại trên đây với những đối nghịch rõ nét (x. số 6), và có liên hệ đến giáo dân và chủ chăn, làm nổi bật, giữa nhiều nguyên nhân khác nhau, (làm nổi bật) vai trò có ý nghĩa được các cơ quan thi hành; những cơ quan này đã được áp đặt ra như là những cơ quan có trách nhiệm chính về sinh hoạt của cộng đoàn công giáo. Thật vậy, cả ngày nay nữa, việc công nhận của những cơ quan nói trên là tiêu chuẩn để tuyên bố một cộng đoàn, một người hay một nơi tôn giáo, là hợp pháp, và do đó, là "chính thức". Tất cả những điều này đã gây ra những chia rẽ giữa hàng giáo sĩ cũng như giữa các tín hữu. Ðây là hoàn cảnh tuỳ thuộc trước hết vào những yếu tố bên ngoài Giáo Hội, nhưng đã có ảnh hưởng nghiêm trọng trên hành trình của giáo hội, bằng việc mở rộng cửa cho những nghi ngờ, những tố cáo lẫn nhau và những lời lên án; đây là một sự yếu kém đáng lo ngại của cộng đồng giáo hội.

Còn đối với những gì có liên hệ đến vấn đề tế nhị về những tương quan cần duy trì với những cơ quan của nhà nước, thì quả thật đáng chúng ta lưu ý đến lời mời gọi của Công Ðồng Vaticanô II là hãy vâng theo lời nói và cách thức hành động của Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô, "vì không muốn trở thành vị thiên sai chính trị và là kẻ thống trị với sức mạnh (25), nên đã thích được gọi là "Con Người", là Ðấng đã đến để phục vụ và hy sinh chính mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người." (Mc 10,45). Ngài trình diện chính mình như là người tôi tớ trọn hảo của Thiên Chúa (26), Ðấng không bẻ gảy cây sậy bị giập, và không thổi tắt ngọn đèn sắp tàn (Mt 12,20). Chúa đã nhìn nhận thẩm quyền dân sự và những quyền lợi của thẩm quyền này, khi ra lệnh nộp thuế cho Cêsar; nhưng Ngài cũng cảnh tỉnh rõ ràng là phải tôn trọng quyền lợi cao hơn của Thiên Chúa: "Hãy trả lại cho Cêsar những gì thuộc về Cêsar, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa." (Mt 22,21). Cuối cùng, Chúa đã hoàn tất mạc khải của Ngài, vừa làm trọn công việc cứu rỗi trên thập giá, mà qua đó Ngài mang lại cho con người ơn cứu rỗi và sự tự do thật. Ngài làm chứng cho sự thật (27), nhưng không muốn dùng sức mạnh để áp đặt sự thật trên những kẻ chống đối. Nước Ngài không được bênh vực bằng gươm giáo (28), nhưng được thiết lập, bằng việc làm chứng và lắng nghe Sự Thật, được lan rộng nhờ tình yêu thương, mà nhờ đó Chúa Kitô, khi bị treo lên Thập Giá, lôi kéo con ngưòi đến với Ngài" (x. Gn 12,32) " (29).

Sự thật và tình thương là hai cột trụ nâng đỡ đời sống của cộng đoàn kitô. Vì thế Tôi đã nhắc rằng "Giáo Hội của tình thương cũng là giáo hội của sự thật, được hiểu trước hết như là sự trung thành với Tin Mừng đã được Chúa Giêsu trao phó cho những ai thuộc về Người.... Nhưng, để sống trong sự hiệp nhất và trong bình an, gia đình của những con cái Thiên Chúa cần đến Ðấng gìn giữ giáo hội trong sự thật và hướng dẫn giáo hội với sự phân định khôn ngoan và có uy tín; đây là điều thường được gọi là việc thi hành thừa tác vụ của các Tông Ðồ. Và, ở đây, chúng ta đi đến một điểm quan trọng. Giáo Hội là hoàn toàn của Chúa Thánh Thần, nhưng có một cơ cấu, có sự tiếp nối tông đồ; và sự tiếp nối tông đồ này có trách nhiệm bảo đảm cho việc Giáo Hội còn trung thành với sự thật do Chúa Kitô trao ban, mà từ sự thật này nảy sinh khả năng sống yêu thương.... Các Thánh Tông Ðồ và những kẻ kế vị các ngài, là những người gìn giữ và làm chứng có uy tín, cho "kho tàng sự thật" được ký gởi cho Giáo Hội, vừa là những tác viên của tình thương bác ái: hai điều này luôn đi đôi với nhau.... Sự thật và tình thương là hai yếu tố của cùng một hồng ân đến từ Thiên Chúa và nhờ thừa tác vụ tông đồ mà được lưu giữ trong Giáo Hội và được lưu truyền đến với chúng ta ngày nay!" (30) Vì thế, Công Ðồng Vaticanô II nhấn mạnh rằng "sự tôn trọng và tình thương phải bao gồm cả những ai suy nghĩ và hành động một cách khác với chúng ta, trong những lãnh vực xã hội, chính trị, và cả tôn giáo nữa, bởi vì nếu chúng ta, --- với sự chân thành và tình bác ái, --- càng thông cảm từ thâm tâm với cách thức suy tưởng của họ, thì chúng ta sẽ càng dễ dàng thiết lập đối thoại với họ". Nhưng cũng chính Công Ðồng Vaticanô II cảnh tỉnh chúng ta rằng: "tình bác ái này và sự dễ thương này, không có cách nào để làm cho chúng ta trở nên lãnh đạm với sự thật và điều tốt." (31) Nhìn vào "ý định nguyên thuỷ của Chúa Giêsu" (32), chúng ta thấy rõ ràng rằng: lý do được nêu ra của vài cơ quan, do Nhà Nước muốn áp đặt và xa lạ với cơ cấu của Giáo Hội, nhằm nắm quyền trên các giám mục và nhằm hướng dẫn đời sống của cộng đồng giáo hội, (rằng lý do được đưa ra đó) là điều không phù hợp với giáo lý công giáo, mà theo đó, Giáo Hội là "tông truyền", như Công Ðồng Vaticanô II đã dạy.

Giáo Hội là tông truyền: "tông truyền do bởi nguồn gốc của mình, vì được thiết lập trên "nền tảng các tông đồ" (Eph 2,20); tông truyền do bởi giáo huấn của mình, là giáo huấn của các tông đồ; tông truyền do bởi cơ cấu của mình, xét vì được giáo huấn, được thánh hoá và được cai quản, cho đến khi Chúa Kitô trở lại, do bởi các tông đồ, qua những người kế vị các tông đồ, tức các giám mục, trong sự hiệp thông với người kế vị thánh Phêrô" (33). Như thế, trong mỗi giáo hội địa phương, chỉ "giám mục giáo phận nhân danh Chúa chăn dắt đoàn chiên được trao phó cho, trong tư cách là vị mục tử dành riêng cho cộng đoàn đó, có thường quyền và trực tiếp liền ngay" (34), và, trên bình diện quốc gia, chỉ hội đồng giám mục mới có thể đặt ra những định hướng mục vụ, có hiệu lực đúng, cho toàn thể cộng đoàn công giáo của đất nước liên hệ". (35)

Mục tiêu được công bố công khai của những cơ quan nhà nước nói trên nhắm thực hiện "những nguyên tắc về độc lập và tự trị, tự quản lý và điều hành cách dân chủ trên giáo hội" (36), là điều không thể hoà hợp được với giáo lý công giáo mà ngay từ đầu các Kinh Tin Kính tuyên xưng Giáo Hội "duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền".

Theo ánh sáng của những nguyên tắc vừa được nhắc đến trên đây, những chủ chăn và các tín hữu giáo dân sẽ nhớ rằng việc rao giảng Phúc Âm, việc dạy giáo lý và công việc từ thiện, sinh hoạt phụng vụ và tôn thờ, những chọn lựa mục vụ, tất cả đều chỉ thuộc thẩm quyền của các giám mục cùng chung với các linh mục của các ngài, trong sự liên tục thường hằng của đức tin, được lưu truyền bởi các Tông Ðồ trong Kinh Thánh và trong Thánh Truyền, và do đó không thể nào tuỳ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.

Trước hoàn cảnh khó khăn như vừa trình bày trên đây, không ít thành phần của cộng đoàn công giáo thắc mắc về việc công nhận từ phía Thẩm Quyền dân sự --- một sự công nhận cần thiết để có thể hoạt động công khai --- cách nào đó gây hại cho sự hiệp thông với giáo hội toàn cầu. Tôi biết rõ rằng vấn đề phức tạp này làm cho tâm hồn của các chủ chăn và các tín hữu phải lo âu đau khổ. Về vấn đề này, trước hết tôi cho rằng bổn phận duy trì trung kiên kho tàng đức tin và sự hiệp thông bí tích và có tính cách phẩm trật, tự nó, không đối nghịch với việc đối thoại với các Thẩm Quyền về những khía cạnh thuộc lãnh vực dân sự, trong sinh hoạt của cộng đoàn giáo hội. Người ta không thấy những khó khăn riêng biệt nào, để chấp nhập việc công nhận từ phía những thẩm quyền dân sự, với điều kiện là việc công nhận này không kéo theo việc chối bỏ những nguyên tắc không thể từ bỏ được của đức tin và của sự hiệp thông trong giáo hội. Tuy nhiên, trong không ít trường hợp cụ thể, --- nếu không phải là gần như luôn luôn, --- trong tiến trình để được công nhận, thì có sự can thiệp của những cơ quan bắt buộc những người liên hệ phải có những thái độ, phải làm những công việc và phải có những dấn thân nghịch lại với những mệnh lệnh của lương tâm của họ như là người công giáo. Do đó, tôi hiểu rằng trong những điều kiện và hoàn cảnh như vậy thì quả thật là khó để quyết định đâu là sư chọn lựa đúng phải thực hiện. Vì thế, Toà Thánh, --- sau khi đã tái xác nhận những nguyên tắc, --- thì dành sự quyết định cho từng giám mục; ngài là kẻ tốt nhất, sau khi tham khảo hàng giáo sĩ của mình, có đủ điều kiện để biết hoàn cảnh địa phương, cân nhắc những khả thể cụ thể của sự chọn lựa, và thẩm định những hậu quả có thể, từ bên trong cộng đoàn giáo phận. Có thể xảy ra trường hợp quyết định cuối cùng không gặp được sự đồng thuận của tất cả linh mục và giáo dân. Tuy nhiên, Tôi cầu chúc cho quyết định cuối cùng đó được tiếp nhận, cho dù với đau khổ, và tôi mong sao còn được duy trì sự hiệp nhất của cộng đoàn giáo phận với vị chủ chăn bản quyền.

Cuối cùng, điều tốt là các giám mục và linh mục, với tâm hồn mục tử đích thực, hãy làm sao trong mọi cách để không tạo ra những hoàn cảnh gây gương mù, nhưng nắm bắt những dịp để huấn luyện lương tâm của tín hữu, với sự chú ý đặc biệt dành cho những kẻ yếu kém nhất: tất cả cần được sống trong sự hiệp thông và trong sự thông cảm huynh đệ, vừa tránh đi những phán đoán và những kết án lẫn nhau. Cả trong trường hợp này, người ta cần lưu tâm rằng, ----nhất là khi thiếu một khoảng rộng thật sự tự do, để đánh giá tính cách luân lý của một hành động, --- thì nên biết một cách kỹ lưỡng những ý định thật sự của đương sự trong cuộc, hơn là sự lỗi phạm khách quan. Do đó, mọi trường hợp cần phải được cân nhắc cách riêng biệt, vừa lưu ý đến những hoàn cảnh. 

8. Hàng Giám Mục Trung Hoa

Trong giáo hội, là Dân Thiên Chúa, những thừa tác viên có chức thánh, --- những kẻ đã được thụ phong đúng cách sau khi đã được học hỏi và huấn luyện tương xứng, --- có bổn phận thi hành trách vụ "giảng dạy, thánh hoá và cai trị". Với sự bổ nhiệm đúng giáo luật đến từ Giám Mục, các giáo dân có thể chu toàn một thừa tác trong giáo hội để lưu truyền đức tin.

Thưa các chư huynh trong hàng giám mục, trong những năm gần đây, vì nhiều lý do khác nhau, chư huynh đã gặp những khó khăn, bởi vì những con người không có chức thánh, và đôi khi còn chưa được rửa tội, lại có quyền kiểm soát và quyết định về những vấn đề quan trọng của giáo hội, kể cả việc bổ nhiệm các giám mục, nhân danh cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau.

Hệ quả là chúng ta gặp phải sự hạ thấp phẩm vị của thừa tác vụ phêrô và thừa tác vụ giám mục, dựa theo một quan niệm về giáo hội, mà theo đó Ðức Giáo Hoàng, các giám mục, các linh mục bị nguy hiểm biến thành, trong thực tế, như là những con người không còn sứ vụ và không còn quyền gì cả. Ngược lại, như người ta thường nói, các thừa tác viên phêrô và giám mục là những yếu tố thiết yếu và trở nên thành phần của giáo lý công giáo về cơ cấu bí tích của Giáo Hội. Bản chất này của Giáo Hội là một hồng ân của Chúa Giêsu, bởi vì chính Chúa "là Ðấng đă thiết lập một số môn đệ làm tông đồ, một số khác thì làm tiên tri, những người khác nữa làm nhà rao giảng tin mừng, những kẻ khác nữa làm chủ chăn, làm thầy dạy, để làm cho anh em trở nên có khả năng chu toàn thừa tác vụ, nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, ngõ hầu tất cả chúng ta đều có thể đạt đến sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Thiên Chúa, có thể đạt đến tình trạng của con người thành toàn trọn hảo, đúng theo mức độ thích hợp với mức trưởng thành trọn vẹn của Chúa Kitô" (Eph 4, 11-13).

Sự hiệp thông và hiệp nhất --- xin cho phép tôi được lặp lại điều này (x. số 5) --- là những yếu tố thiết yếu và không thể tách rời ra của Giáo Hội công giáo: vì thế dự án về một "giáo hội tự trị", trong lãnh vực tôn giáo, tách ra khỏi Toà Thánh, là điều không phù hợp với giáo lý công giáo.

Tôi ý thức rõ về những khó khăn trầm trọng, mà chư huynh phải đương đầu trong hoàn cảnh vừa nói trên đây, để duy trì sự trung thành với Chúa Kitô, với Giáo Hội và với người kế vị thánh Phêrô. Như thánh Phaolô đã quả quyết (x. Roma 8, 35-39), và khi nhắc chư huynh nhớ lại rằng không có khó khăn nào có thể chia tách chúng ta ra khỏi tình yên Chúa Kitô, tôi luôn nuôi dưỡng niềm tin tưởng rằng chư huynh biết làm tất cả những gì có thể, vừa tin tưởng phó thác cho Chúa, để bảo tồn sự hiệp nhầt và hiệp thông giáo hội, cả với giá phải trả là những hy sinh to lớn.

Nhiều thành viên của hàng giám mục Trung Hoa, trong những thập niên gần đây, đã hướng dẫn giáo hội, đã cống hiến và còn đang cống hiến cho cộng đoàn riêng tại chỗ và cho giáo hội phổ quát, một chứng tá sáng ngời. Một lần nữa, phát sinh từ tâm hồn tôi, một bài ca chúc tụng và cảm tạ dâng lên Vị "Mục Tử Tối Cao" của đoàn chiên. (1 Phêrô 5,4); quả thật, người ta không thể quên rằng nhiều người trong số quý chư huynh đã chịu bách hại và đã bị ngăn cản không cho thi hành thừa tác vụ của mình; và vài vị đã làm cho giáo hội được phong phú, bởi việc phải hy sinh mạng sống mình. Thời đại mới và những thách thức từ đó của công việc rao giảng phúc âm, làm nổi bật vai trò của thừa tác vụ giám mục. Như Ðức Gioan Phaolô II đã nói cho các vị Chủ Chăn khắp nơi trên thế giới, họp nhau tại Roma để cử hành Năm Thánh, "vị chủ chăn là người chịu trách nhiệm đầu tiên, và là người linh động cộng đoàn giáo hội, trong đòi hỏi sống hiệp thông cũng như trong dự án truyền giáo. Ðối diện chủ thuyết tương đối và chủ thuyết chủ quan đang đầu độc nhiều phần của nền văn hoá hiện đại, các giám mục được mời gọi bảo vệ và cổ võ sự hiệp nhất giáo lý nơi các tín hữu. Ðược thôi thúc trong mọi hoàn cảnh trong đó đức tin bị lạc mất hoặc bị lơ là, các giám mục hãy dấn thân hết sức mình để phục vụ cho công việc rao giảng phúc âm, bằng việc chuẩn bị các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho công việc truyền giáo này, và bằng việc dành ra những phương tiện cần thiết" (37).

Lm. Đặng Thế Dũng ( chuyển ngữ)

( Còn tiếp )

Mục lục

Thư của Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn gởi các Cơ quan Truyền thông Công giáo Việt Nam

 

1. Tôi nghĩ rằng sự thật là một yếu tố nền tảng cho công cuộc phát triển vững bền đất nuớc, xây dựng các mối quan hệ xã hội thành một sức mạnh cho công cuộc phát triển đó. Tôi cũng nghĩ rằng, theo giáo huấn của Giáo Hội công giáo từ Công Đồng Vatican II đến nay, chức năng của cơ quan truyền thông công giáo là thông truyền trung thực sự thật toàn vẹn về Thiên Chúa, về con người và cuộc sống, nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng nói trên, đồng thời nhằm loan truyền Chúa Giêsu Kitô là sự thật trọn vẹn về Thiên Chúa và con người, là sự thật mang ánh sáng khôn ngoan và sự bình an cho mọi người trong xã hội đang biến chuyển và trong thế giới toàn cầu hoá hôm nay.

2. Thực tế cho thấy cơ quan truyền thông xã hội nơi nầy nơi khác thông truyền có khi là sự thật thật, có khi là sự thật ảo, có khi là sự thật bị cắt xén, bị bóp mép, thêm râu ria, có khi là sự thật một chiều, một mặt. Phải chăng nguyên nhân là do quan điểm cho rằng sự thật chỉ là những gì có lợi cho mình? Hoặc do cái nhìn bị giới hạn bởi hoàn cảnh? Hoặc do nỗi sợ hãi nào đó thường núp bóng sau lưng những hình thức bạo lực? Và hậu quả trước mắt là dễ tạo ra mâu thuẫn đối kháng, hoặc gây nhiễu và làm biến chất những mối quan hệ xã hội.

3. Để minh họa cho thực tế trên, tôi chia sẻ kinh nghiệm qua vài trường hợp liên hệ ít nhiều đến tôi.

4. Những kinh nghiệm đó dần dần biến nhiều người thành Tào Tháo, thường xuyên sống trong đa nghi và nghị kỵ lẫn nhau. Thế nhưng, đối với người dè dặt, nó cho thấy rằng làm gì có sự thật toàn vẹn trong xã hội ngày nay, chỉ có sự thật một chiều, một mặt, sự thật ảo, và sự thật cần thời gian để xuất hiện dần dần cách đầy đủ hơn.

5. Điều tôi ước mong là cơ quan truyền thông công giáo không bao giờ biến người tín hữu thành kẻ đa nghi đối với chính Chúa và gia đình Giáo Hội của mình, thành Tào Tháo đối với anh em đồng bào và đồng loại của mình. Hãy luôn ý thức và trung thành với chức năng của mình, vì sự nghiệp của đất nước, vì sứ vụ loan truyền sự thật Chúa Kitô yêu thương và phục vụ cho sự sống và phẩm giá con người.

TP. HCM, Ngày 10.7.2007

Gioan B. Phạm Minh Mẫn

+ Hồng Y Tổng Giám mục

Mục lục

Cha Bề trên Tổng quyền Dòng Tên đến Việt Nam



SAIGÒN – 10 giờ 20 sáng ngày 7 tháng 7 năm 2007, cha Bề trên Tổng quyền Dòng Tên Peter- Hans Kolvenbach, S.J. và cha Tổng phụ tá Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J. đã đặt chân đến sân bay Tân Sơn Nhất để bắt đầu một tuần viếng thăm và cử hành lễ tạ ơn mừng 50 năm Dòng Tên trở lại phục vụ Giáo hội tại Việt Nam. Cha Bề trên Tôma Vũ Quang Trung, S.J. và các cha trưởng cộng đòan đã đón cha Bề trên Tổng quyền tại sân bay.


Vào lúc 5 giờ chiều cùng ngày, cha Bề trên Tổng quyền đã chủ sự Nghi thức làm phép Học viện mới và cùng với cha Bề trên Dòng Tên tại Việt Nam đặt viên đá đầu tiên xây dựng Nhà nguyện của Học viện với sự chứng kiến của cha Tổng phụ tá và các tu sĩ trong Dòng. Việc xây dựng Học viện mới cũng phản ánh sự phát triển ơn gọi của Dòng trong những năm gần đây và cho thấy sự quan tâm của Dòng cho việc đào tạo, chăm lo, và phát triển tòan diện cho các tu sĩ. Ngay tiếp sau Nghi thức đó, cha Bề trên Tổng quyền đã chủ tế Thánh lễ tạ ơn cùng với tòan thể anh em trong Dòng.


Hiện nay, sau những năm tháng khó khăn của lịch sử, Dòng Tên tại Việt Nam đang bắt đầu trở lại hiện diện một cách năng động hơn trong các họat động tông đồ và xã hội phục vụ Giáo hội và con người. Theo thống kê đầu năm nay, Dòng Tên hiện có 120 tu sĩ gồm 38 linh mục, 17 tu huynh, 39 thầy học viên, và 26 tập sinh. Với nhân số giới hạn và khiêm tốn như thế, Dòng Tên Việt Nam hiện đã có 10 cộng đòan hiện diện tại nhiều giáo phận để đáp ứng những nhu cầu mục vụ thích ứng với đòi hỏi của việc truyền giáo, xứ đạo, đào tạo và tĩnh tâm Linh thao.

 

Vũ SJ

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

Bài giảng của Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa trong Đại Lễ mừng Kim Khánh Giáo phận Nha Trang



 

Lời Chúa trong đoạn sách Isaia vừa đọc ghi lại lời Chúa nhắn nhủ dân Do Thái sau thời gian lưu đày ở Babylon:

- Tiên tri Isaia nói cho dân Do Thái biết rằng không phải vua Cyrô, một tiên tri hay một thiên thần nào khác đã cứu họ khỏi nô lệ. Nhưng chính Thiên Chúa đã đích thân cứu họ.


- Thiên Chúa đã thực hiện công cuộc giải thoát này chỉ vì lòng thương xót dành cho dân Ngài, chứ không vì lợi ích của Thiên Chúa.


Ơn giải thóat này cũng làm cho họ nhớ lại một ơn còn lớn lao hơn nhiều, đó là ơn giải thóat khỏi nô lệ Ai Cập. Hơn nữa, tiên tri còn muốn cho họ thấy Thiên Chúa hằng luôn ban ơn chọ họ.


- Sau khi giúp dân do Thái nhìn lại quá khứ để nhận ra hồng ân của Chúa, tiên tri Isaia mời gọi tòan dân có tâm tình ca tụng tạ ơn Chúa.


Đây cũng là tâm tình của dân Chúa trong giáo phận Nha Trang trong Năm mừng Kim khánh này. Chúng ta cảm tạ Chúa vì hồng ân đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho đòan con của Ngài trong giáo phận ngay từ thời kỳ đầu của công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Lịch sử Giáo hội Việt Nam còn ghi lại rằng: Ngày 1-9-1671 Đức Cha Lambert de la Motte, vị Đại diện Tông tòa tiên khởi giáo phận Đàng Trong, đã đặt chân lên Lâm Tuyền (tức Chợ Mới- Nha Trang ngày nay) để thăm viếng mục vụ giáo đoàn tại đây.

Cũng như dân Do Thái xưa, trong suốt năm qua cũng như chính ngày hôm nay, chúng ta cũng ôn lại lịch sử hình thành và phát triển giáo phận để tạ ơn Thiên Chúa đã tạo nên một môi trường thuận tiện cho cuộc sống đức tin. Đó là tổ chức giáo phận và giáo xứ, nơi mỗi tín hữu được sinh ra trong đức tin, được nuôi dưỡng lớn lên để phục vu xã hội và Giáo hội bằng nhiều ơn gọi khác nhau: giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân.

Đây cũng là lúc chúng ta tưởng niệm và tri ân dòng máu tử đạo của các vị thừa sai, của các bậc tiền nhân đã đổ ra trên mảnh đất thân thương của giáo phận để cho đưac tin của chúng ta được lớn lên.

Đây cũng là lúc chúng ta ghi nhớ và tri ân sâu xa công lao, tài năng, trí tuệ và tình yêu của các giáo sĩ, tu sĩ cũng như giáo dân đã và đang cống hiến suốt bao năm qua để xây dựng và vun đắp cho giáo phận nhà. Đặc biệt phải kể đến Đức Cha Marcel Piqquet, vi giám mục tiên khởi của Nha Trang, của Đức cố Hồng y FX Nguyễn văn Thuận, Đức cố GM Phêrô Nguyễn Văn Nho, và rất nhiều linh múc khác đã ra đi trước chúng ta.


Bài Tin mừng kể lại việc Đức Mẹ đi thăm bà Elizabeth. Khi Đức Maria chỉ mới cất tiếng chào thì hài nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng me, còn chính bà Elizabeth thì lại được ơn Chúa Thánh thần để nói lên những lời ngợi khen nhắm tới Đức Maria: Em thật diễm phúc vì đã tin vào lời Chúa phán, vì đang có Chúa trong lòng.


Thế nhưng Đức Maria không chút tự cao về diễm phúc lớn lao đã nhận được.Mẹ chỉ nhận mình là nữ tỳ hèn mọn được Chúa ghé mắt đóai thương. Mẹ hướng mọi lời ca ngợi về Thiên Chúa là cội nguồn mọi ân phúc. Mẹ luôn luôn ca ngợi Chúa:


-vì Ngài là Đấng cực thánh và tòan năng, đã dẹp tan những người giàu có kiêu căng


-vì Ngài có lòng thương vô cùng và hay ra tay cứu độ. Lòng thương không chỉ giới hạn nơi Đức Mẹ mà còn tỏa ra cho mọi dân nước, cho tất cả mọi người tin nhận Chúa.


Noi gương Đức Mẹ, chúng ta nhận thức rằng những gì mà giáo phận có được đều xuất phát từ tình thương của Chúa. Và chúng ta hãy học với Mẹ vang lời ca ngợi Thiên Chúa vì biết bao hồng ân Ngài ban cho giáo phận trong suốt 50 năm qua. Có điều gì giáo phận, giáo xứ, dòng tu, Đại chủng viện đã có mà chẳng do nhận lãnh từ Thiên Chúa? Vì Thiên Chúa cực thánh, toàn năng, và có lòng thương xót vô cùng.

Trong Bài đọc 2 Thư gởi tín hữu Côlosê, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta cách ca tụng và tạ ơn Thiên Chúa:

Ca tụng trong Phụng vụ: Hãy dùng những bài Thánh vịnh, thánh thi và thánh ca để hát mừng Thiên Chúa.

Tạ ơn Thiên Chúa trong việc làm: tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như rong hành động, anh em hãy làm vìn danh Chúa Giêsu Kitô, để nhờ Người mà tạ ơn Chúa Cha.


Năm Thánh là thời gian đặc biệt dành cho việc ca tụng và tạ ơn Thiên Chúa. Từ nay cho đến mãi về sau, chúng ta hãy tích cực cùng với ca đòan hát thánh ca trong phụng vụ, vì thánh ca làm “tăng thêm vẻ huy hòang cho việc thờ phượng Thiên Chúa và chắc chắn làm cho đời sống thiêng liêng của các tín hữu thêm tiến triển” (Thông điệp Kỷ luật về Thánh nhạc số 1, 1995).


Đi đôi với việc ca hát trong phụng vụ, mọi người hãy sám hối và cải thiện đời sống nhất là trong nỗ lực sống bác ái, yêu thương, phục vụ mọi nguời.


Cụ thể: biết tôn trọng luật giao thông đi đường, biết tôn trọng mạng sống, sức khỏe của người khác và của chính mình, biết yêu mến giáo hội, giáo phận và giáo xứ, không dùng các phương tiện truyền thông để gây chia rẽ..


Đó cũng là cách biến cuộc đời chúng ta thành lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa.

 

Trong đại lễ hôm nay, khi cộng đoàn phụng vụ chúng ta cùng dâng lời tạ ơn Chúa, chúng ta đâu có làm gì cho Chúa được thêm vinh quang đâu.


Nhưng chúng ta vẫn dâng lời tạ ơn vì nhờ tạ ơn mà chúng ta được ơn cứu độ. Tạ ơn nhưng lại được ơn, không phải chỉ là ơn trong quá khứ nhưng mà là ơn ngay cả trong hiện tại và tương lai.


Xin Chúa cho chúng con được suốt đời ca tụng Ngài

 

Thông tin lấy từ Web site Giáo phận Nha Trung

 

Mục lục

 

 

NHƯ HỒN TRONG XÁC

 Cho đến khi được hoàng đế Công-tăng-tin chính thức nhìn nhận (năm 313), đạo Chúa Kitô gặp muôn vàn khó khăn trong môi trường chính trị, xã hội và văn hóa thù nghịch của đế quốc Rôma; Kitô hữu thường xuyên bị kỳ thị, bị truy nã và bắt bớ; người ta vu khống cho họ nhiều thứ tội ác và thêu dệt nên những chuyện động trời chống lại họ, nhằm loại họ ra như những thành phần bất hảo. Về mặt khác, nhất là ở thế kỷ thứ II, họ còn phải đương đầu với những đòn công kích của người Do Thái và của một số nhà trí thức “ngoại giáo” trên bình diện tôn giáo và triết học nữa. Trong lúc đó thì tập thể tín đồ Chúa Kitô một mực cố gắng sống trung thành với đạo lý tốt lành của Chúa, hòa mình vào đời sống mọi người, đón nhận tất cả những gì là chân thiện mỹ dù từ đâu đến nhưng không ngại phản kháng thế gian tội lỗi và thâm tín rằng lối sống của mình đang tích cực phục vụ cho chính cái xã hội ghét bỏ mình, bách hại mình.

Về điểm này, Giáo Hội Công giáo còn giữ lại một tài liệu rất quý là một lá thư do một tác giả khuyết danh viết cho một người tên là Đi-ô-nhê-tô ở thế kỷ thứ II. Nó cho ta thấy rõ Kitô hữu ngay từ thời đầu và trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, đã ý thức rất rõ vai trò xã hội của Kitô giáo như thế nào. Tôi xin trích dẫn hơi dài một chút vì tôi thấy tài liệu cổ này quá hay và giúp tôi diễn tả cách sống động một vài điều tôi muốn trình bày trong bài viết này.

1. Như linh hồn trong thể xác...

“Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một nếp sống khác biệt. Giáo lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như những người kia.

“Họ ở trong những thành phố văn minh cũng như bán khai, tùy theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình mà như những khách kiều cư. Họ chu toàn mọi nhiệm vụ công dân, nhưng phải gánh đủ thứ như khách ngoại kiều. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương nào cũng là đất khách đối với họ. Họ lập gia đình và sinh con đẻ cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn nhưng không chồng chung vợ chạ.

“Họ sống trong xác thịt, nhưng không theo xác thịt. Họ sống ở trần gian nhưng họ là công dân Nước Trời. Họ tuân hành luật pháp, nhưng cách sống của họ còn hoàn thiện vượt trên luật pháp. Họ yêu thương mọi người, nhưng mọi người lại ngược đãi họ. Họ không được nhìn nhận, lại còn bị kết án. Họ bị giết mà vẫn được sống. Họ là những người hành khất, nhưng lại làm cho nhiều người nên giàu. Họ thiếu thốn mọi thứ, nhưng lại dư dật mọi sự. Danh thơm họ bị chà đạp, nhưng bằng chứng về đời sống công chính của họ lại được phô bày. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng. Khi làm điều thiện, họ lại bị trừng phạt như những kẻ bất lương. Người Do Thái giao chiến với họ như với ngoại bang, còn dân ngoại thì ngược đãi họ, và những kẻ ghét họ không thể nói lý do tại sao lại căm thù họ.

“Tôi xin nói đơn giản rằng: hồn ở trong xác thế nào, thì các Kitô hữu sống giữa thế gian cũng vậy (...) Linh hồn vô hình được gìn giữ trong thân xác hữu hình, thì người ta nhìn thấy các Kitô hữu sống trong thế gian, nhưng không thấy lòng đạo đức của họ. Xác thịt thù ghét và gây chiến với linh hồn, dù linh hồn không làm hại gì cho xác thịt, mà chỉ ngăn không cho nó hưởng lạc thú [tội lỗi]; thế gian cũng ghét các Kitô hữu như vậy, dù họ không gây thiệt hại gì cho nó, mà chỉ chống lại các lạc thú.

“Linh hồn yêu thân xác, nhưng thân xác và các chi thể lại ghét linh hồn; các Kitô hữu cũng yêu những kẻ ghét mình. Linh hồn bị giam giữ trong thân xác, nhưng thực ra chính linh hồn lại chứa đựng thân xác...”

2. Chỉ là đời sống Kitô hữu bình thường

Như mọi người mà vẫn khác với mọi người chung quanh, đó là một ý tưởng cốt yếu được lặp đi lặp lại trong lá thư này. Giống trong cái tốt, khác trong điều xấu. Một ý tưởng then chốt khác là: lấy điều lành đối lại điều dữ. Đây là hai nét tiêu biểu của một cuộc sống Kitô hữu chân chính giữa thế gian tội lỗi mà hẳn là ai cũng tán thành. Nhưng coi Kitô hữu ở giữa đời như linh hồn ở trong thể xác, phải chăng là tự đề cao quá đáng?

Chúng ta nên biết lá thư trên đây nằm trong loại văn thịnh hành trong giới Kitô giáo thế kỷ thứ II, gọi là văn chương hộ giáo (apologetics), nhằm minh oan, biện hộ cho Kitô giáo trước những lời phê bình, những hiểu lầm và thậm chí những vu cáo bất công của xã hội chung quanh, nhưng bức tranh mà tác giả vẽ ra đây về đời sống của tập thể Kitô hữu thời bấy giờ chắc chắn là trung thực. Để tồn tại trong một môi trường hết sức thù nghịch như thế chắc hẳn những người kém cỏi ươn ái khó đứng vững nổi. Quả thực, người Kitô hữu điển hình vào thời buổi ấy, chính là vị tử đạo. Tuy nhiên ở đây tác giả cũng không nêu lên việc làm phi thuờng nào của người tín hữu, ông chỉ nói tới đời sống bình thường của bất cứ người Kitô hữu nào cố gắng trung thành với giáo lý Tin Mừng. Mà thực ra sống đúng theo các đòi hỏi thông thường của Tin Mừng đã đưa người ta vượt lên rất xa khỏi cái tầm thường và bình thường rồi. Đọc lá thư này, tôi như nghe văng vẳng nhiều lời Kinh Thánh Tân Ước quen thuộc:

“Anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15, 19).

“Anh em đừng rập theo thế gian này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 2).

“Anh em đã nghe Luật dạy rằng: hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em...” (Mt 5, 43-44).

“Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng (...) Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 13-14.16).

Và đặc biệt chỉ thị sau đây của thánh Phêrô cho đời sống Kitô hữu trong hoàn cảnh bị bắt bớ:

“Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống, bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác” (1Pr 3, 16-17).

3. Phải như mọi người, đồng thời dám khác với mọi người

Đọc những lời Kinh Thánh trên đây cùng với đoạn thư gởi Đi-ô-nhê-tô, tôi cảm thấy thấm thía vị trí khó khăn của Kitô hữu giữa trần gian. Họ vừa phải dấn thân vào thế gian, sinh sống và làm việc như mọi người, nhưng đồng thời phải dám giữ một cự ly cần thiết với trần gian, phản kháng nó nếu cần và không sợ khác với mọi người khi mọi người làm điều xấu. Bởi vì người Kitô hữu ở giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian, y như Chúa Giêsu vậy. Có một thế gian tội lỗi luôn đối nghịch với họ và họ không thể nào làm bạn với nó được nếu họ muốn là môn đệ thật của Chúa Kitô. (Cũng đừng quên rằng cái thế gian đó vẫn có trong ta và luôn tìm cách chế ngự ta). Trước khi vĩnh biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã cầu xin với Chúa Cha cho họ rằng: “Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17, 14-15).

Kinh nghiệm cho thấy rằng chúng ta không dễ gì giữ được thăng bằng giữa hai mặt tương phản vừa nhập thế vừa xuất thế mà ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi. Rập hẳn theo thế gian hay dứt khoát chống lại nó thì đơn giản hơn nhưng không được phép. Trong thực tế chúng ta thường tìm một sự thỏa hiệp nào đó khiến ta không quá căng thẳng với thế gian mà cũng không đến nỗi phản bội lý tưởng làm môn đệ của Chúa cách lộ liễu. Nhưng chính vì thế mà đời sống Kitô hữu chúng ta thiếu lửa, và vì thiếu lửa nên cũng thiếu sức thuyết phục và tính ngôn sứ, tính phản biện. Như thế, chúng ta không phục vụ xã hội và đồng bào bằng cái phần đóng góp riêng của mình mà họ cần thiết nhất: cái phần hồn cho nó.

4. Một lời chất vấn

Theo một tờ báo xuất bản tại Tp. HCM mới đây, thì phim ảnh, băng dĩa, báo chí tình dục đủ loại đang tràn ngập hai nước Thái Lan và Philíppin mặc dù đó là những nước sùng đạo bậc nhất, đạo Phật và đạo Công giáo. Bài báo mỉa mai nêu câu hỏi: phải chăng nền đạo đức tôn giáo không đủ sức ngăn chận làn sóng dâm ô tai hại này?

Tôi thấy cách đặt vấn đề như trên có vẻ quá đơn giản, nhưng dù sao cũng làm tôi chột dạ và tự hỏi: đâu là ảnh hưởng của Công giáo Việt Nam trên xã hội hiện nay, một xã hội đang phát triển khá mạnh mẽ về vật chất nhưng đang “teo” dần về mặt tinh thần, đạo lý? Nói tới ảnh hưởng, đa số chúng ta thường nghĩ trước tiên tới những tổ chức, cơ cấu, cơ sở và những hoạt động bề ngoài ai cũng thấy được. Nghĩ như thế không sai. Những thứ đó là tốt. Nhưng đừng quan trọng hóa chúng quá mức vì đó chưa phải là yếu tố quyết định. Cái quyết định là phẩm chất Tin Mừng của đời sống Kitô hữu chúng ta, cá nhân và tập thể. Nói cho cùng, cơ cấu tổ chức và công việc mới chỉ là cái xác mà ai cũng có thể tạo ra được; quan trọng hơn là cái “linh hồn” người ta mặc cho nó. Nếu việc làm chúng ta không phát xuất và được nuôi dưỡng bởi tinh thần Chúa Kitô, thì dù có ảnh hưởng nào, ảnh hưởng đó cũng chỉ là bề ngoài và chưa có gì đặc thù của Kitô giáo cả. Thiếu tinh thần đó, chúng ta chỉ làm chứng cho mình, chưa phải cho Chúa Kitô. Nhìn vấn đề như thế thì ảnh hưởng của ta hiện nay trên xã hội tuy dễ thấy hơn, nhưng chưa chắc đã lớn hơn, sâu hơn các thời khó khăn trước đây, nhất là những năm liền sau ngày lịch sử 30/4/1975.

Theo hướng suy nghĩ này, tôi đọc lại Thư mục vụ năm 2006 của Hội Đồng Giám Mục. Các ngài đã vạch ra một hướng Sống Đạo cho hôm nay, “trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam đang bước vào tiến trình toàn cầu hóa, vốn đem lại những tác động tích cực nhưng cũng đặt ra những thách đố mới cho cả đời lẫn đạo” (TMV 06, II.4). Chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi các giá trị, thậm chí một cuộc đảo lộn các giá trị đang diễn ra khắp nơi trong xã hội ta, mạnh mẽ trong các đô thị và lặng lẽ hơn trong vùng thôn quê. Người tin Chúa đang làm chứng cho những giá trị nào đây? Trong khi khuyến khích người tín hữu hãy thực hiện một số những giá trị Kitô giáo đặc biệt cần thiết hiện nay, các Giám mục cũng gián tiếp nhắc tới những “phản giá trị”, những tệ nạn đang tràn lan trong xã hội, như dối trá, phá thai, ly dị, chạy theo vật chất và làm giàu bất chấp mọi quy luật đạo đức, chà đạp nhân phẩm (hãy nghĩ tới nạn đĩ điếm, những vụ buôn bán phụ nữ trẻ em, hay vụ 118 cô gái miền Tây bị tập kết ở Sài Gòn ngày 9/4 mới đây cho 7-8 người đàn ông Hàn Quốc tuyển làm vợ), v.v. Để chống lại các tệ nạn đó và “góp phần tích cực vào sự phát triển bền vững của xã hội cũng như của Giáo Hội”, các Giám mục hướng dẫn người Công giáo phải tự mình canh tân đời sống mình, nêu gương sáng, xây dựng “lối sống thắm đượm tinh thần Phúc Âm”,“phát huy những giá trị Kitô giáo trong đời thường”, “quan tâm xây dựng và duy trì những giá trị vô cùng cao quý của đời sống hôn nhân và gia đình Công giáo”, “cương quyết không để cho ‘văn hóa sự chết’ lôi cuốn mình”... Đó cũng là một cách phản kháng, phản kháng tích cực bằng chính đời sống mình thay vì phản kháng bằng lời nói suông, mặc dù cách phản kháng này cũng cần thiết tùy nơi tùy lúc. Tóm lại, các Giám mục chúng ta rất nhấn mạnh chất lượng đời sống theo Tin Mừng trong việc phục vụ xã hội, coi đó là yếu tố quyết định.

Xin trích dẫn hai câu: “Nếu trong đời sống Kitô hữu, Chúa Giêsu thực sự là điểm quy chiếu và là chuẩn mực giúp nhận định giá trị các hành vi, thì sự hiện diện tích cực qua việc sống đạo của Kitô hữu trong xã hội sẽ trở thành lời chứng về những giá trị của Tin Mừng và trở nên dấu chỉ của niềm hạnh phúc trên trời” (TMV 06, 4). Và câu kết lá Thư mục vụ: “Chúng ta hãy sống đạo hôm nay theo tinh thần Phúc Âm, để làm vinh danh Thiên Chúa và góp phần xây dựng hạnh phúc cho mọi người” (TMV 06, 11).

Phương thế đầu tiên và tốt nhất để người Công giáo phục vụ xã hội trong tư cách Kitô hữu là xây dựng nếp sống cá nhân và tập thể giàu chất lượng Tin Mừng, hay nói theo tác giả thư gởi Đi-ô-nhê-tô, là cố gắng sống trong xã hội như linh hồn trong thể xác ?

Lm. Nguyễn Hồng Giáo, OFM

Mục lục

YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ

 

Hội đồng Giám mục Việt Nam chúng ta ra thư mục vụ với chủ đề “sống đạo hôm nay”. Sống đạo hôm nay, với người dân Việt Công giáo là sống đức tin trên quê hương hình chữ S, cùng với hiện trạng chính trị, kinh tế, văn hoá…của nước Việt này. Các vị cha chung của Hội Thánh Việt Nam mời gọi đoàn tín hữu sống niềm tin bằng việc sống giới răn yêu thương, đặc biệt qua sự phục vụ. Xin được chia sẻ vài ý mọn nhân đọc lời dạy của các ngài.

 

Là Kitô hữu, chúng ta vẫn quen thuộc với giới răn yêu thương của đạo chúng ta. Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình là nội dung chính yếu và căn bản của đời sống đạo. Cùng một giới răn yêu thương nhưng hai đối tượng là Thiên Chúa và tha nhân. Có người diễn giải rằng tuy hai mà một như hai mặt của một đồng tiền. Không thể nào nói mến Chúa mà không yêu thương anh em và trái lại không thể nào nói yêu thương tha nhân mà lại không mến Chúa.

 

Nói thì dễ nhưng để sống trọn vẹn giới răn mến Chúa yêu người thì quả không mấy dễ chút nào. Đã từng có nhiều lần ta những tưởng rằng mình hành xử như thế là vì mến Chúa mà vô tình hay hữu ý lại đi loại trừ tha nhân. Chúng ta đã không từng vì danh Chúa để loại bỏ những người bất đồng chính kiến, không cùng niềm tin…bằng những sự chém giết, tù đày hay giàn hỏa thiêu ? Vẫn có đó rất nhiều khi ta yêu thương tha nhân mà không có tình mến Chúa chút nào. Bởi chưng cái mà ta gọi là “tha nhân” ấy chỉ là sự phóng thể, sự trương nở cái bản ngã của ta. Khi ta thương yêu những người hợp với nhãn quan của ta, thuận với mục đích của ta, quyền lợi hay chức vụ của ta thì ta đang yêu thương chính bản thân cách trá hình đấy thôi.

 

Để giải quyết vấn nạn trên đây, không gì hơn hãy quy chiếu về Đức Kitô, Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Yêu mến Đức Giêsu Kitô là đồng thời chu toàn luật mến Chúa và yêu người. Thế nhưng Giêsu đã không còn hiện diện cách hữu hình thì làm sao đây ?  Trong đức tin và nhờ lời mặc khải, đặc biệt Tin Mừng, chúng ta có thể nhận ra Người đang hiện diện bên chúng ta, giữa chúng ta, mọi lúc, mọi thời. Chính các mối phúc thật cho chúng ta nhận ra chân dung của Người.

 

Những kẻ thật lòng nghèo khó, những kẻ hiền lành, những kẻ ưu phiền, những kẻ đói khát công chính, những kẻ biết xót thương, những kẻ tinh sạch trong lòng, những ké tác tạo hoà bình, những kẻ bị bắt bớ vì sự công chính ( x Mt 5, 3-10), tất thảy là hình ảnh của Đức Giêsu Kitô. Không ai là không nhìn nhận rằng con đường bát phúc là con đường Đức Giêsu đã đi và tám mối phúc chính là những cảnh phận Đức Giêsu đã sống khi còn dương thế. Và Giêsu qua những con người trong những cảnh phận ấy đang mời gọi ta yêu thương phục vụ.

 

Theo lời dạy của Hội đồng Giám mục Việt Nam, đoàn tín hữu Công giáo Việt Nam chúng ta sống đạo yêu thương cách đặc biệt bằng hành vi phục vụ, noi theo hành vi Thầy Chí Thánh, Đấng đến thế gian “ không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” ( Mt 20, 28). Hai từ phục vụ vốn dĩ quen tai chúng ta, những Kitô hữu. Không chỉ quen mà hai từ ấy còn mang dáng dấp cao cao và sang trọng cách nào đó. Bởi chưng chúng ta thường nghe các đấng bậc trong đạo tuyên bố mỗi khi đến nhận nhiệm sở mới : tôi đến đây hay được sai đến đây để phục vụ anh chị em. Thực ra theo nguyên nghĩa thì phục vụ có nghĩa là làm công việc của người đầy tớ, người nô lệ. Nói nôm na phục vụ nghĩa là làm tôi, là hầu hạ, làm theo lệnh của chủ, làm vì lợi ích của chủ.

 

Chắc hẳn khi dạy chúng ta sống đạo hôm nay bằng thái độ yêu thương qua sự phục vụ, các vị Cha chung Hội Thánh Việt Nam hữu ý muốn đoàn con cái làm chứng cho niềm tin của mình bằng sự phục vụ. Đó là dấn thân hầu hạ, làm tôi cho những người thật lòng nghèo khổ, hiền lành, ưu phiền, đói khát công chính, biết xót thương, tinh sạch trong lòng, tác tạo hoà bình, bị bắt bớ vì sự công chính ngay trên quê hương nước Việt chúng ta hôm nay, với hoàn cảnh chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế… hiện nay.

 

Đón nhận thư chung của HĐGMVN theo nhãn quan này thì thật khó cho một ai đó nhận định ‘thư chung là chung chung, áp dụng ở đâu cũng được, hoàn cảnh nào cũng đúng, thời buổi nào cũng hợp”. Chúng ta vốn dễ nhận ra những người nghèo khó trên quê hương Việt Nam hôm nay. Họ là những công nhân trong các khu công nghiệp, nhà máy…đang vắt kiệt sức lao động của mình mà không kiếm đủ cái để sống cho ra con người khiến cho thời gian vừa qua đã tổ chức đình công đây đó. Họ là những nông dân ngày ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời nhưng rồi vẫn không kiếm đủ tiền cho con cái theo học để kiếm cái chữ mà tiến thân với người. Họ là những người không chức, không quyền, thiếu thông tin và có thể không có được cái quyền làm chủ thực sự như công dân của một nước. Họ là…

 

Chúng ta không khó nhận ra những người ưu phiền hay đói khát sự công chính trên đất nước chúng ta hôm nay. Họ là những người đang can đảm tố giác những bất công của xã hội, những sai lệch của cơ chế quản lý, những chuyện tham nhũng, xà xẻo trong các lãnh vực giáo dục, y tế, giao thông vận tải, xây dựng, thể dục thể thao, cứu trợ bão lụt…mà những tháng ngày vừa qua báo chí và các phương tiện truyền thông khác đã đăng tải. Họ có thể là những người thấp cổ bé phận hay là đương chước đương quyền mà thâm tâm  muốn xây dựng đất nước ta thực sự công bằng, dân chủ và văn minh như nỗ lực của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với Chỉ thị số 32/ 2006 /CT – TTg về việc chấn chỉnh ngay tệ nạn quan liêu, gây phiền hà cho dân, cho doanh nghiệp. Họ là…

 

Chúng ta thật dễ nhận ra những người biết xót thương, tinh sạch trong lòng, xây dựng hoà bình hay bị bách hại vì lẽ công chính ngay hôm nay, trên quê hương nước Việt này. Họ có thể là những tu sĩ nam nữ muốn hiến mình cho anh chị em nghèo khó vùng sâu, vùng xa nhưng đang gặp những khó khăn vì luật cư trú. Họ là những người có thể đang bị giam cầm cách bất công vì “oanh sai”  trong xét xử hay vì một lý do không đúng nào đó…

 

Để hầu hạ, làm tôi những con người ấy, chắc hẳn không thể không có sự dấn thân. Đã là dấn thân là cần có động thái đi xuống và quên mình. Để hầu hạ nhân loại, Đức Kitô đã không màng danh phận của một vị Thiên Chúa, đã huỷ mình ra không, mặc lấy thân tôi đòi và hiến dâng mạng sống mình trên thập giá. (x  Pl 2, 6-11). HĐGMVN kêu gọi hàng linh mục và tu sĩ nam nữ không chỉ cầu nguyện cho việc “sống đạo hôm nay”  mà còn phải làm gương sáng trong việc kiên trì dấn thân sống đức tin thể hiện qua đức ái. ( số 5).

 

Đã dấn thân là phải chấp nhận mất mát, chấp nhận hy sinh. Sẽ chẳng có thành quả nào đẹp ý Chúa mà không gắn liền với thập giá. Ma quỷ thường làm chùn chân bước chúng ta bằng nhiều nỗi sợ hãi; sợ bị gây khó dễ, sợ bị lật tẩy những lỗi lầm trong quá khứ, sợ không được tiến thân trong đạo lẫn ngoài đời, sợ bị giam cầm hay bắt bớ…Giả như không chút bỏ được những cái sợ này thì không thể có sự dấn thân. Đã không dấn thân thì đừng nói đến phục vụ và yêu thương. Và dĩ nhiên là đừng nói chuyện sống đạo, sống đức tin nếu không giữ giới lệnh Đức Kitô truyền yêu thương nhau như Người yêu thương ta.

 

Có tấm gương nào sáng và đẹp như tấm gương Giêsu Thầy Chí Thánh luôn đi trước đám môn sinh. Người không đứng dằng sau mà hô “xung phong” nhưng luôn mời gọi “hãy theo Thầy”. Thầy đã làm gương cho chúng con thì chúng con hãy bắt chước Thầy mà rửa chân cho nhau ( x Ga 13) . Ước gì có nhiều Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ Việt Nam dấn thân đi đầu trong việc hầu hạ, làm tôi những người nghèo khó… bị bách hại vì lẽ công chính ngay hôm nay trên quê hương Việt Nam thân yêu, chắc hẳn đoàn chiên Chúa  là đoàn tín hữu sẽ đồng tâm một ý sống đạo hôm nay cách cụ thể và hữu hiệu.

 

Lm. Nguyễn Văn Nghĩa, Ban Mê Thuột

Mục lục

 

Xuân, hạ, thu, đông. Bốn mùa cứ lần lượt đến rồi lại đi.


Và rồi sau cái hẹn lại đến ấy thì tiếng những chú ve báo hiệu mùa Hè lại đến. Tiếng ve sầu cứ râm ran mang một nỗi buồn hoa phượng khi phải chia tay nhau sau những ngày tháng học hành vất vả. Sau những ngày học hành vất vả ấy người sinh viên, học sinh lại hân hoan bước thêm một bậc nữa trên con đường học vấn.


Hoà quyện giữa những tiếng ve gọi hè ấy là những bài thánh ca “đời tận hiến” được cất vang trong các nhà nguyện, thánh đường. Cũng vậy, đời thánh hiến sau những năm miệt mài tu học sẽ bước lên một bậc nữa trong đời thánh hiến bằng lời tuyên khấn lần đầu, lời tuyên khấn vĩnh viễn, mừng kỷ niệm ngân khánh, ngọc khánh khấn dòng hay là hạnh phúc hơn nữa là lãnh tác vụ linh mục.


“Đường đi lên nhà Chúa, Chúa ơi cung thánh Ngài ngời bao huyền diệu, ngất ngây trong cõi lòng lạy Chúa con vui sướng dường bao, có Chúa làm gia nghiệp đời con nguồn hạnh phúc con trông cậy Ngài ...” vang lên báo hiệu mùa Thánh hiến đã bắt đầu.


Vâng ! Có Chúa làm gia nghiệp, đời con nguồn hạnh phúc con trông cậy Ngài. Chọn Chúa là gia nghiệp cho mình để rồi nhiều và nhiều người đã đáp lại lời mời gọi trao hiến cuộc đời của mình cho sứ vụ loan báo Tin mừng. Và thật sự, sống trong nhà tu thì có khi này khi khác cũng giống như trời có lúc nắng lúc mưa nhưng tôi cảm nhận thật sự là “ngất ngây trong cõi lòng, lạy Chúa con vui sướng dường bao”. Thật sự thì hạnh phúc nhưng thử nhìn lại lời tuyên khấn, mình có xứng đáng hay không hay mình có giữ trọn hay không ?


Vào những ngày chuẩn bị tuyên lời khấn vĩnh viễn, Cha Phó Giám Đốc Học Viện đã chia sẻ với anh em chúng tôi cái cảm nghiệm của lớp Ngài trong ngày ấy cách đây hơn chục năm :


“ Thử nhìn lại chính bản thân chúng ta : không phải “khiêm nhường ống điếu”, không phải tự ti nhưng thật sự phải thấy sự thất tín, bất trung của chúng ta với Chúa. Chúng ta phải nhận ra con người mỏng manh, hèn yếu của mình. Vậy chúng ta lấy cái gì ra để tạm gọi là để bảo đảm cho lời tuyên khấn các lời khuyên Tin mừng của chúng ta ?. Nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui, chúng ta chỉ xác tín một điều rằng nhờ vào lòng trung tín của Chúa thì chúng ta mới dám tuyên khấn mà thôi”.


Vâng ! Với những lời chia sẻ mộc mạc ấy tôi cảm nhận đúng ! Chỉ có sự tín trung của Chúa mà những người thánh hiến mới dám hiến thánh cuộc đời của mình mà thôi.


Thời gian sao mà lẹ quá, mà nhanh quá, mà vội quá ! Mới đó mà đã tròn một năm “vĩnh khấn”. Và khi nhìn lại, quả thật sự tín trung của Chúa đã khoả lấp những lỗi lầm, những yếu đuối, những thiếu sót trong đời tu của mình.

 

Cứ thế và cứ thế, lòng tín trung của Chúa vẫn cứ còn mãi. Từ ông tổ Ađam và bà Evà cho đến ngày hôm nay, dẫu rằng hai bên cứ như đối nghịch nhau : một bên thì thành tín và yêu thương còn bên kia thì lại thất tín và hờn ghen. Điều quan trọng và căn cốt là lòng tín trung của Chúa cứ mãi mãi bền vững để cho những mùa thánh hiến còn mãi nơi lòng nhân thế hay thay đổi và hay đổi thay.


Mùa thánh hiến đến rồi lại đi.


Rạo rực, nôn nao, hạnh phúc trào dâng trong mùa thánh hiến cũng qua đi nhưng mùa thánh hiến là dịp nhắc nhớ chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt hơn cho những người hiến thánh.

 

Đã là con người, ai cũng mang trong mình thân phận mỏng dòn và yếu đuối để rồi cần và cầu nhiều lắm lời cầu nguyện của những người thân thương.


Sống là sống nhờ, sống cho và sống với và cả là một mối tương quan huyền nhiệm. Cầu nguyện cho nhau để cuộc đời được bình an hơn, hạnh phúc hơn trên con đường lữ hành về Thiên Quốc.

 

Anmai, C.Ss.R.

 

Mục lục

 

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC

 

 Chứng hôn cho người đã có vợ

Kính thưa Cha,

Cách nay hơn hai tháng, con về thăm quê hương và cùng tham dự lễ cưới (đúng ra là đại diện nhà trai) cho anh bạn con. Anh ta đã li dị vợ (đôi bên công giáo) và lần này kết hôn với một phụ nữ thuộc Giáo Hội Tin Lành Cơ Đốc Phục lâm. Hôn lễ của hai người đã không được cử hành tại nhà thờ Tin lành vì lý do anh bạn con là người công giáo, bù lại, họ đã làm hôn phối tại ngay nhà hàng dưới sự chủ tế của một vị mục sư, họ cũng đọc Kinh Thánh, hát Thánh ca, trao nhẫn và chúc lành của vị mục sư. Hiện diện có đông đủ họ hàng, có cả bà mẹ vợ bên nhà gái, bên trai không có ai ngoại trừ vợ chồng con.

Khi trở về Úc, anh trai của con cho biết theo Giáo Luật, người Công giáo không được phép tham dự lễ cưới và tiệc cưới trong trường hợp như trên, nếu tham dự là có tội vì vợ anh ta còn sống, thực tâm lúc đó con không hề mảy may nghĩ đến Luật Chúa..

Vậy con xin hỏi Cha, con có bị mắc tội không? Nếu có, thì khi xưng tội có được tha không? Con cảm thấy bối rối trong tâm hồn, mong cha giải đáp cho con sớm nhất.

Xin cám ơn Cha, chúc Cha nhiều hồng ân Chúa, Kính chào Cha,

Nguyễn Vũ.

***************

Anh Nguyễn Vũ thân,

Đọc thư anh, tôi đoán rằng người bạn nào đó của anh sau khi không tìm được ai đứng ra “đại diện nhà trai” cho đám cưới thứ hai của anh ta tại Việt Nam (vì hoàn cảnh li dị của anh ấy), nên anh ấy nhờ được anh thì chắc mừng lắm, vì anh (và có lẽ cả vợ anh nữa) ..hai người không hề mảy may nghĩ đến Luật Chúa... khi làm công việc này (bên trai không có ai hết ngoài vợ chồng anh). Lý luận cách bình dân theo Thần học luân lý thì khi hành động không chủ ý thì không phạm tội (!?). Anh có thể bỏ đi sự bối rối hiện có trong tâm hồn, vì anh không có chủ ý hành động trái nghịch với luật lệ của Giáo Hội.

Tuy nhiên, bên cạnh cái vô tội của anh, người ta có thể nhận thấy cái “vạ” đã có thể có (cũng lại lý luận cách bình dân theo Thần học luân lý), đó là cái gương mù gương xấu cho những người biết chuyện, đó là cái lỗi về công bằng anh đã làm với người vợ trước của bạn anh và có thể con cái của anh ta nữa (chắc họ cũng là bạn của anh nữa?)

Do đó, tôi xin trả lời thư anh như sau:

- Việc có tội hay không qua hành động “đại diện nhà trai” của anh là do chính anh nhận thấy, Giáo Luật không qui định tội cho ai được: Hoặc anh cảm thấy áy náy, không bình an trong tâm hồn, hoặc anh không thấy lương tâm bối rối gì sau khi đại diện trong đám cưới đó.

- Nếu anh nghĩ rằng mình có tội, thật tâm hối hận về việc mình đã làm và đi xưng tội, thì như anh biết đó, bất cứ tội nào cũng được tha cả, nếu người hối nhân hối hận và dốc lòng chừa.

Chúc anh bình an trong tâm hồn.

Lm. Bùi Đức Tiến

Mục lục

 

SỐNG CHỨNG NHÂN

TRINH NỮ TỬ ĐẠO TRUNG HOA: AGATHA LINH VÀ LUCIA Y

Agatha Linh thuộc gia đình Công Giáo đạo đức. Nhận thấy đức hạnh hiếm có của cô, các Linh Mục thừa sai xin cô đến một cứ điểm truyền giáo ở miền quê, để vừa dạy chữ vừa dạy giáo lý cho các thiếu nữ trong vùng. Agatha Linh vui vẻ nhận lời. Cô khiêm tốn nói:

- Các Linh Mục thừa sai bỏ quê hương cha mẹ, anh em, bạn bè đến đây để rao giảng Tin Mừng cho dân tộc tôi. Chẳng lẽ tôi là người tội lỗi, lại dám từ chối chịu đau khổ vì danh Đức Chúa GIÊSU KITÔ và giúp các Linh Mục trong công cuộc rao truyền ơn cứu độ, cứu giúp các linh hồn sao?

Năm 1858, vào thời kỳ Giáo Hội Công Giáo bị bách hại tại Trung Quốc, Agatha Linh bị bắt cùng với hai tín hữu Kitô khác. Bị điệu ra trước tòa, quan hỏi:

- Linh là tên của cha mẹ ruột cô hay là tên của bên họ nhà chồng?

Cô Agatha đáp:

- Đó là tên của cha mẹ ruột tôi vì tôi không có chồng.

Quan hỏi:

- Tại sao cô được miễn lập gia đình?

Agatha đáp:

- Tôi là thiếu nữ nghèo và thuộc gia đình bình dân nên tôi giữ mình trinh khiết.

Quan la lớn:

- Cái gì là ”giữ mình trinh khiết”? Ai cũng phải lập gia đình hết! Cô không lập gia đình tức là cô phá vỡ 1 trong 5 liên hệ: vua-tôi / cha-con / vợ-chồng / anh-em / bạn-bè. Ai gởi cô đến đó và đến để làm gì?

Cô Agatha đáp:

- Tôi đến để dạy học.

Quan lại hỏi:

- Cô dạy cái gì? Có phải cô dạy rằng: ”Mọi người đều là bụi đất hết phải không?”

Agatha đáp lại:

- Tôi dạy các thiếu nữ học biết ngôn từ, lễ độ, hầu kiếm được người chồng đàng hoàng và biết ăn nói với gia đình nhà chồng. Tôi cũng dạy các thiếu nữ biết vâng phục và kính trọng tha nhân theo đúng địa vị mỗi người.

Quan nói:

- Với tư cách là quan lớn, tôi truyền cho cô phải bỏ đạo xấu xa kia đi!

Cô Agatha mạnh mẽ thưa:

- Làm sao tôi bỏ đạo Công Giáo được! Đây là đạo của ông bà tổ tiên truyền lại. Tôi nghèo và là trinh nữ. Tôi thờ lạy THIÊN CHÚA là Thần Linh Tối Thượng và là Chủ Tể muôn loài. Tôi không thể bỏ đạo tôi theo được!

Quan lại nói:

- Thật là dại dột, không chịu nghe lời quan lớn. Vì thế tôi truyền lệnh giết chết cô. Cô có hiểu rõ điều tôi nói không?

Nói rồi, quan lấy bút viết: ”Phụ nữ tên Linh, vì rao giảng và tuân giữ đạo Chúa, nên bị phạt phải chết”.

Khi tên lý hình tiến lại gần và định lột áo, nhưng cô Agatha giữ chặt áo và nói:

- Tôi thà bị đánh ngàn cú, còn hơn là bị lột áo.

Tên lý hình đành vâng lời cô trinh nữ. Anh tuốt gươm chặt đứt đầu cô. Hôm ấy là ngày 28-1-1858.

... Trinh nữ tử đạo người Hoa thứ hai tên Luxia Y. Luxia Y vừa là cô giáo trường làng vừa là giáo lý viên. Cô bị bắt vì tội theo đạo Công Giáo và truyền giảng giáo lý của đạo. Bị điệu ra trước tòa, quan bảo cô hãy chối đạo và lập gia đình. Cô Luxia Y trả lời:

- Tôi không chối đạo. Tôi không bao giờ từ bỏ danh hiệu tín hữu Công Giáo. Tôi cũng không lấy chồng. Tôi hơn 40 tuổi rồi. Cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn hằng trung tín với Chúa: tôi muốn luôn luôn là trinh nữ của Ngài.

Thấy không thể dụ dỗ nổi cô, quan nghĩ ra kế gọi một bà mai đến. Theo thói tục Trung Hoa, các bà mai vừa có nhiệm vụ mai mối cho các đám cưới vừa mua các cô gái rồi bán lại cho ai muốn cưới làm vợ.

Bà mai quan chọn đến dụ dỗ cô Luxia Y rất may là người chính trực, nhưng không phải Công Giáo .. Bà không đả động đến chuyện cưới hỏi, chỉ khuyên cô chối đạo. Nghe vậy, cô Luxia thở dài đáp:

- Không lẽ bà lặn lội từ xa đến đây chỉ để khuyên tôi mấy lời này sao? Bà biết không, người Công Giáo chúng tôi không thay lòng đổi dạ nhanh chóng như vậy đâu! Chúng tôi trung thành với Đức Tin cho đến cùng. Tôi thà chết chứ không xa lìa THIÊN CHÚA của tôi.

Sáng ngày 18-2-1862, cô Luxia Y lại bị điệu ra tòa. Quan hỏi:

- Suốt đêm qua, cô suy nghĩ kỹ chưa? Cô quyết định như thế nào?

Cô Luxia đáp:

- Tôi là nữ tỳ THIÊN CHÚA. Tôi chỉ còn bước một bước nữa là vào Thiên Đàng. Không lẽ tôi ngu dại bước lùi lại và chối bỏ Đức Tin Công Giáo sao?

Xấu hổ trước lời lẽ cứng rắn của phụ nữ Công Giáo, quan tức giận thóa mạ:

- Mụ là vợ của Linh Mục!

Ghê tởm trước lời thóa mạ cô Luxia nói như thét lớn:

- Tôi không phải là vợ Linh Mục! Linh mục cũng như tôi, chúng tôi thề hứa giữ mình trinh khiết trọn đời!

Càng nổi giận hơn trước lời đối đáp, quan ra lệnh:



- Lính đâu, cởi hết áo quần cô này ra!

Cô Luxia vừa giữ chặt áo vừa nói lớn với quan:

- Quan cũng như tôi, chúng ta đều có một NGƯỜI MẸ. Để kính trọng hương hồn Mẹ của quan, xin quan đừng nỡ làm sỉ nhục tôi!

Động lòng trước lời xin của cô Luxia Y, quan truyền để nguyên áo quần nhưng ra lệnh chém đầu cô.


Sau ba lát gươm, đầu cô trinh nữ Luxia Y rơi xuống, hồn bay thẳng lên chốn trời cao, nơi cô hằng ước nguyện, tưởng nhớ.

... ”Bạn tình của anh hỡi, nàng đẹp tựa Tia-xa, duyên dáng tựa Giêrusalem, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ .. Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ?” (Sách Diễm Ca 6,4+10).

(Adrien Launay, ”Les trent cinq vénérables serviteurs de Dieu”, Paris, 1907).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Mục lục

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

ĐỜI PHẢI THẾ

 

 Khi yêu nhau, anh chị đặt rất nhiều kỳ vọng cho nhau. Điều đó rất bình thường. Nhưng sẽ không bình thường, thậm chí còn ảo vọng, nếu chị cứ mộng rằng, ông chồng mình phải là “Hoàng tử Bạch mã ”, hoàn toàn mọi bề. Vì điều đó, bao lâu còn ở trần gian, chẳng khi nào có được. Còn anh, cũng cứ mơ về một người vợ “Vóc hạc thân mai ”, công dung ngôn hạnh đủ cả, tài sắc không ai bì được … Thì cũng là chuyện “Liêu trai ”, có mặt ở hành tinh nào không biết, nhưng chắc chắn không có ở trái đất chúng ta.

 

Nếu cả anh cả chị đều hướng về nhau như một cặp “Thanh mai trúc mã ”, chẳng bao giờ có so le cọc cạch, thì cũng chỉ là ảo. Bởi vì “Gái một con trông mòn con mắt” chả biết có đúng không? Nhưng đã hai ba con, được mấy ông chồng nào còn đủ can đảm mà “Trông” nữa.

 

Vì thế, cần phải chấp nhận trước cái thực tế của cuộc sống: Không bao giờ có thể tránh khỏi sự cố.

 

Chúng ta vẫn chờ một viễn cảnh tốt, nhưng cũng nắm chắc sẽ có những bóng tối xen vào.

 

Biết trước như thế, thì giả dụ bóng tối có ập đến, chúng ta sẽ ít ngạc nhiên, hoảng hốt hơn. Phản ứng của chúng ta cũng ít gây “Sốc” hơn.

 

Anh chị mới mua một tấm thảm quý, và cứ nghĩ nó phải được giữ cẩn thận, không bao giờ để bị vấy bẩn. Nhưng chẳng may một ly sữa bể, tung tóe trên tấm thảm … Với định kiến không bao giờ làm bẩn, bây giờ bỗng nhiên bị bẩn, chắc chắn anh chị sẽ bực tức, căng thẳng. Ngược lại, thay vì cứ nghĩ, mọi thứ chẳng bao giờ hư hỏng, anh chị nên nghĩ chẳng có gì mới mãi dưới ánh mặt trời và cứ thản nhiên chờ đợi sự cố. Trong tâm trạng đó, nếu sự cố xảy ra, anh chị sẽ dễ dàng chấp nhận nó, như một sự việc không thể tránh khỏi.

 

Anh chị yêu nhau, mong muốn sự hoàn hảo của nhau, nhưng cũng đừng quên cả hai vẫn là người. Vì thế phải sẵn sàng, thậm chí “Chờ đợi” những tiêu cực không thể tránh khỏi của một con người.

 

Đã chờ đợi nó, thì một khi nó lộ mặt, anh chị có đủ võ trang để đương đầu. Ngược lại, nếu quá lý tưởng, nếu cứ đóng khung bạn đời của mình trong vòng hào quang hoàn hảo, tuyệt trần, thì lúc những cái không lý tưởng, những cái thường tình xảy ra, anh chị sẽ rất khó tránh khỏi thất vọng. Từ thất vọng đi đến nuối tiếc: “Phải chi tôi biết trước” hoặc “Tôi không ngờ …”.

 

Chấp nhận mọi thứ như chúng thật có, phải đủ năng lực mới làm được. Muốn có năng lực, anh chị phải tập luyện. Đừng nuôi ý nghĩ, mọi sự phải đúng như ý muốn, nhưng phải chấp nhận một đôi việc ngược với ý thích của mình. Hãy nhìn mọi sự với một xác tín: Chẳng gì là không thể xảy ra ở cái cõi hồng trần này. Sẵn sàng với những điều không may như thế, chắc chắn, khi nó xảy ra, anh chị sẽ dễ dàng có được những phản ứng quân bình.

 

Dù chị có được đánh giá là hoàn hảo mấy đi nữa, thì thực chất vẫn có những điểm chẳng hoàn hảo tý nào:

 

 “Trông em như thể sao mai

Bóc ra mới biết trong ngoài khác nhau”

 

Còn anh, bề ngoài dù có hào hoa công tử, cưỡi bạch mã, lái Mercedes hoặc gì gì đi nữa, thì vẫn có những nét chẳng đáng hoan hô, thậm chí còn nên nguyền rủa nữa. Bởi vì, đã là con người là phải thế, nó là hợp chất giữa vật và linh. Phần linh cao cả, phần vật lại thấp lè tè, nhưng phải có cả hai mới là người được.

 

Chấp nhận thực tế đó, anh chị mới có thể chung sống hạnh phúc với nhau. Việc chấp nhận này không có nghĩa là, cứ để phần vật mặc sức tung hoành, vì như thế là “Nhân linh thua vạn vật” rồi. Ngược lại, anh chị cần phải tìm mọi cách, để phần linh nắm phần quản trị, buộc phần vật phải tuân thủ mọi quy tắc “Làm người ”. Nhờ thế, mới có thể “Nhân linh ư vạn vật” được.

 

Chấp nhận sự thực về nhau, để cảm thông nhau và thăng tiến lẫn nhau, nên là lý tưởng cần được đặt ra và theo đuổi trong suốt cuộc sống hôn nhân của anh chị.

 

Trích tập sách “Tình không như là mơ” của Linh mục  Hồng Nguyên

 

Mục lục

 

ĐỌC SÁCH

VỤN VẶT SUY TƯ :

Thiên nhiên cho ta nhiều phương thức truyền giáo

 

 

  1. Phương thức “con tu hú”.

 

Con tu hú không làm tổ, đẻ lén trong tổ quạ. Qụa ấp trứng của mình và của tu hú. Qụa mẹ bón mồi cho cả quạ con và tu hú con. Quạ mẹ yêu thương tu hú con y như yêu quạ con. Mẹ quạ tập hợp hay cho tu hú bú con. Khi biết hay, tu hú bay đi và không bao giờ làm thân con quạ.

 

Nhà truyền giáo có thể bắt chước tu hú.

 

+ Không xây trường học mà chỉ làm giáo sư, giáo viên. Không tốn công đào tạo, không tốn sức quản lý, không tốn tiền trả lương…mà vẫn làm chứng tá cho Tin mừng trong môi trường giáo dục.

 

+ Không xây bệnh viện, nhưng làm bác sĩ, y tá, y công. Không tốn tiền xây cất cơ sở, đào tạo chuyên viên…mà Tin mừng vẫn được loan đi qua cuộc sống của y, bác sĩ, y công có tinh thần bác ái bên cạnh những mảnh đời đang đau khổ vì bệnh hoạn tật nguyền.

 

+ Không lập công ty du lịch mang nhãn hiệu Công giáo mà chỉ làm nhân viên hướng dẫn du lịch. Công ty đào tạo mình, trả lương cho mình. Mình vừa làm lợi cho công ty du lịch, vừa truyền giáo qua cách sống đạo đức và qua lời loan báo khôn khéo của mình.

 

+ Ông Nicôđêmô là một con tu hú. Ông đứng trong hàng ngũ của giới lãnh đạo Do thái chống Đức Giêsu. Ông ăn cơm của người chống Chúa. Nhưng ông không chống Chúa. Ông dùng luật để bênh vực Chúa. Thân xác của ông thuộc về “mẹ quạ”. Cái tâm của ông vẫn thuộc về “mẹ tu hú”.

 

  1.  Phương thức “con thỏ”.

 

Căn tính của thỏ là nhát. Người ta thường nói “nhát như thỏ”. Thỏ yếu đuối lắm, nên lúc nào cũng phải vểnh tai lên để nghe ngóng. Gặp nguy hiểm thì không bao giờ đối phó, mà chỉ lo chạy trốn. Thỏ đào hang làm hầm trú. Hang có hai cửa. Thò ra ở cửa này mà gặp khó thì thò ra ở cửa kia. Thụt thò cũng là một chiến thuật thỏ duùng để sinh tồn.

 

Ngoài chiến thuật “thụt thò” và ‘đào vi thượng sách”, thỏ còn sử dụng chiến thuật thứ ba nữa, đó là sanh đẻ thật mau, thật dày. Thỏ rừng đẻ từ ba đến bốn lứa một năm. Mỗi lứa đẻ từ bốn đến mười con. Thỏ nhà thì đẻ từ sáu đến bảy lứa một năm. Mỗi lứa đẻ từ mười đến mười lăm con.

 

Chiến thuật của loài thỏ có vẻ hạ sách. Nhưng nhờ đó mà loài thỏ không những tồn tại, mà còn phát triển khủng khiếp. Trước thế kỷ XVI, lục địa Úc Châu không có thỏ. Đầu thế kỷXVI, di dân từ Âu Châu đến đó, có người mang theo một cặp thỏ…Bây giờ thì thỏ là kẻ thù số một của nông nghiệp tại Úc,. Diệt thỏ đã được nâng lên hàng quốc sách. Nhưng thỏ vẫn thắng, nhờ chiến thuật có vẻ hạ sách đó.

 

Thời đế quốc La Mã bắt đạo. Giáo hội Công giáo sống chui lũi như thỏ. Không nhà thò, trong nhà không bàn thờ, trên người không ảnh tượng…Từ ngoài nhìn vô, tưởng như người Công giáo  không còn tồn tại. Sienki-Ewies, nhà văn đoạt giải Nobel văn chương 1905, đã phát giác ra rằng người ta chỉ nhận ra người Công giáo bằng hai dấu hiệu âm thầm sau đây :

 

+ Gia đình Công giáo dù giàu hay nghèo thì cũng chỉ có một vợ một chồng. Người đàn bà Công giáo thời đó bị chế giễu là “con mẹ một chồng”.

 

+  Trong gia đình Công giáo, thì chủ và nô lệ coi nhau như anh em.

 

Sau 300 năm cấm đạo, người ta tưởng đạo Công giáo đã không còn hiện hữu nữa. Ai ngờ…khi vua Constantinô cho tự do tín hữu vào đầu thế kỷ IV, thì người ta mới thấy người Công giáo xuất hiện ở khắp mọi nơi, trùng trùng điệp điệp y như loài thỏ ở Úc Châu vậy. Nhát và trốn chạy chỉ là chiến thuật chứ không phải là chiến bại.

 

 

3. Phương thức “trái ké”.

 

Cây ké thấp tè tè, nhìn ngắm cây sao cao vời vợi. Trái sao có cánh, rớt ra khỏi cành, vùa bay vừa quay theo gió. Bay mãi, quay mãi, rồi mới rớt xuống. Rớt xuống rồi mọc lên thành hằng trăm cây sao con rải rắc khắp nơi. Loài sao phát triển cả về không gian lẫn số lượng, nhờ thân cây sao và trái có cánh.

 

Cây ké vừa thấp vừa bé, làm thế nào để truyền nòi ? Trái ké rụng xuống một đống ở gốc me, sẽ mọc lên thành một cây ké con. Ké mẹ và bầy ké con chen chúc bên nhau, giành nhau để ăn, giành nhau để thở. Mẹ con ké, anh ém kè phải đạp lên xác nhau để sống. Thế là mẹ con giết nhau, anh em tiêu diệt nhau. Ké sẽ bị tuyệt chủng.

 

Để gỡ thế bí, cậy ké không thèm vươn cao, trái ké không thèm mọc cánh, nhưng trái ké mọc gai lởm chởm. Thế là êm.

 

+ Con trai hái ké, búng vào đầu con gái. Gai kè dính vào tóc con gái. Con gái tức khí, gỡ ra quăng thật xa. Thế là hạt ké mọc lên thành cây ké ở chốn mênh mông. Khỏi kèn cựa, khỏi đấu tranh, mà vẫn truyền nòi.

 

+ Con cọp đi kiếm mồi, chui qua bụi ké. Trái ké dính vào lông cọp. Cọp đi, đi thật xa. Mệt thì nằm nghỉ. Thấy vương vướng ở lông, lấy chân cào bỏ trái ké. Trái ké rớt xuống, mọc lên xa không gian của cây ké mẹ hằng ngàn mét. Tha hồ mà lớn lên, khỏi  tranh giành với ké mẹ. Vẫn tồn tại và phát triển, nhờ gai của trái ké và nhờ lông của con cọp. kế hoạch cao siêu quá, mà cứ tưởng là tình cờ.

 

Tin mừng cũng được loan đi như thế. Saolô bắt đạo tàn nhẫn ở Giuđê. Thế là tín đồ của Chúa bỏ chạy tán loạn.

 

+ Người giàu thì vượt biên, đi lập nghiệp ở Kyrênê, ở dảo Síp, ở đảo Crét… Đặng chẳng đừng như vô tình Tin mừng được loan báo ở hải ngoại.

 

+ Người nghèo không có khả năng xuất ngoại, thì kéo nhau lên Samari. Người Samari không ưa người Do thái. Nhưng con cái của Đức Giêsu thì được ưu đãi, vì Đức Giêsu là tác giả của dụ ngôn “Người Samaritanô nhân từ “. Thế là Tin mừng được loan báo ở đây. Tin mừng đến Samari vừa đi vừa hồi hộp, y như trái ké dính vào long cọp..

 

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

 

Mục lục